Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

Nem chả chợ huyện Bình Định

Nem chợ Huyện là một trong những món ăn đặc sản Bình Ðịnh. Mỗi lần có hội hát tuồng là người dân đất võ còn có thú ăn uống. Món ăn tuy nhiều nhưng nổi bật nhất là "nem chả chợ Huyện", nem nổi tiếng từ xưa cho đến bây giờ.

Nem Chợ Huyện đã có từ khoảng trăm năm nay. Chợ Huyện nay là làng Vinh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước quê hương của vị hậu tổ tuồng Đào Tấn. Bởi vậy, ca dao bình Định mới có câu:
Ai về Vĩnh Thạnh quê em
Ăn nem Chợ Huyện, đêm xem hát tuồng.

Nem Chợ Huyện ngon chủ yếu là nhờ khâu chọn thịt. Thịt, phải là thịt heo cỏ 6-8 tháng tuổi, cân nặng chừng 60kg trở lại. Heo có thịt săn nhiều nạc, màu đỏ sẫm. Một con heo nặng cỡ đó nhưng để làm nem, chỉ lấy được chừng 15 kg thịt nạc lọc từ bốn cái đùi.

Thịt được cắt theo chiều ngang chừng 3cm rồi thái nhỏ, để ráo nước, sau đó cho vào cối đá để quết (giã), dứt khoát không xay thịt bằng máy. Muốn thịt được nhuyễn, dai, giòn, người thợ phải quết liên tục, cỡ chừng 20-30 phút. Trong lúc quết, phải gia thêm đường và muối theo một tỷ lệ chính xác (tuyệt đối không dùng hàn the). Khi thịt đã chín, nhuyễn, người ta gia thêm tiêu hạt và da heo đã xắt nhỏ.
Có hai loại nem, nem tươi và nem chua. Nem tươi là nem nướng ăn ngay. Còn nem chua thì để được lâu. Những chiếc nem chua nho nhỏ, xinh xinh, vuông vắn được gói bằng lá chuối chát xanh, miếng nem bên trong được gói bằng lá vuông hoặc lá ổi để hút ẩm. Sau khi gói ba ngày là có thể đem ra dùng.
Nem Chợ Huyện có vị ngon rất riêng và độc đáo: không mềm như nem Thủ Đức, cũng không ngọt như nem Lai Vung, nem An Cựu. Lột mấy lớp lá bên ngoài, chiếc nem chua đỏ au hiện ra. Cắn một miếng ngập răng, ta cảm nhận ngay vị dai dai, sần sật, chua chua, giòn giòn, vị thơm béo khó diễn tả.

 Ăn nem phải kèm nước chấm được nhiều người khoái khẩu là nước mắm ngon pha loãng với đậu phụng giã nhỏ, có thêm chút xíu đường và ớt tỏi. Người không cầu kỳ thì chỉ cần vài trái ớt hiểm dằm tương, là có thể vừa ăn vừa xuýt xoa cái sự thơm ngon của một đặc sản vùng quê Bình Định. Nem hoàn toàn bằng thịt nạc nên ta có thể ăn no mà không sợ hàn. Cứ một miếng nem tợp một ngụm rượu Bàu Đá trong vắt, thơm nồng thì không có gì bằng.
Nem là món ăn được người dân Bình Định dùng khá phổ biến, từ những chiếc nem được cắt tỉa trang trọng trong các lễ cưới hỏi, giỗ chạp đến những chiếc nem bày đơn sơ nhắm cùng rượu Bàu Đá, nem chợ Huyện đã tạo nên một "thương hiệu" đặc sản và ẩm thực của miền đất võ.
Nem Chợ Huyện còn là một thứ quà thấm đẫm chất quê theo chân du khách, người làm ăn xa lan tỏa đi khắp nơi, sang cả nước ngoài. Ai đi đâu về đâu, cũng tranh thủ xách theo một xâu nem Chợ Huyện làm quà tặng. Nếu bạn chưa một lần thưởng thức nem Chợ Huyện, hãy về Bình Định một lần để thưởng thức vị ngon không thể quên của món ăn này.

Thứ Tư, 28 tháng 5, 2014

Chả lụa Chợ Huyện nét đặc trưng của người Bình Định

Đặc sản Chả lụa Chợ Huyện nét đặc trưng của người Bình Định
Nhắc đến Bình Định, du khách không còn lạ gì với hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ người anh hùng của dân tộc mà còn là nơi hội tụ của rất nhiều tinh hoa của nhân loại. Đến Bình Định du khách sẽ được ghé thăm các khu du lịch sinh thái nỗi tiếng như Ghềnh Ráng với lăng mộ Hàn Mạc Tử, với bãi tắm Hoàng Hậu với vẻ đẹp huyền bí của bãi Trứng, chiêm ngưỡng tài năng bút lửa Dũ Kha, không những thế tại đây du khách sẽ ngỡ ngàng trước cảnh đẹp của Tháp Đôi, được hòa mình vào nét huyền bí của tháp Bánh Ít...

Chả lụa chợ huyện đặc sản Bình Định
Không những là địa danh của những cảnh đẹp, Bình Định không những là cái nôi của các làng nghề mà còn là nơi hội tụ của rất nhiều món ăn dân dã đặc sản Bình Định. Đến với Bình Định du khách hãy dành cho mình một ít thời gian dạo quanh để thưởng thức, hòa mình vào cái dân dã của quê hương, được thưởng thức bún chả cá Quy Nhơn, được ăn bánh xèo tôm nhảy Tuy Phước, cái đặc biệt của bún Rạm Phù Mỹ, thưởng thức thơm ngon của cá niên An Lão...Đặc biệt hơn nữa khi ghé về Tuy Phước ta bắt gặp những món ngon nỗi tiếng như bánh hỏi thịt heo, nem chả Chợ Huyện...
Nói đến Chợ Huyện, du khách sẽ ngỡ ngàng trước vị thơm ngon của chả lụa thịt heo xứ nẫu.
Từ ngàn xưa chả lụa chợ huyện vốn là món không thể thiếu trong các bữa tiệc tùng, cưới hỏi, lễ tết của người dân nơi đây bởi vị thơm ngon hòa quyện. Là món quà hấp dẫn và có ý nghĩa thiết thực cho người thân, bạn bè sau những chuyến gần xa.
Chả lụa chợ huyện nguyên liệu chính là làm bằng thịt heo nạt nguyên chất quết nhuyễn, không hàn thế nên tạo được hương vị thơm và dai, rất ngon.
Chính vì vậy, dù đi bất cứ nơi đâu nếu có dịp ghé về Bình Định du khách hòa mình vào những món đặc sản thôn quê dân dã, hãy thỏa sức tận hưởng vị thơm ngon đặc sắc của chả lụa chợ huyện.

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2014

Bánh ít lá gai nét đặc trưng của người Bình Định

Đặc sản thôn quê các vùng miền luôn luôn cập nhật và thông tin tới mọi người những loại đặc sản miền trung nói chung và đặc sản Bình Định nói riêng cho khắp anh chị em trên mọi miền biên cương tổ quốc.
Bánh ít lá gai từ xa xưa luôn là một món ăn không thể thiếu trong các dịp cúng giổ, đám hỏi,..v..v nó đại diện cho một nét văn hóa, một điều gì đó hết sức thiên liêng cho cả một vùng miền.
Bánh ít lá gai còn nổi tiếng với các câu ca như:
"Muốn ăn bánh ít lá gai,
Có chồng Bình Định cho dài đường đi."

Bánh ít lá gai nét đặc trưng của người Bình Định

Bánh ít lá gai là đặc sản của Bình Định. Sau này, cách làm bánh lan rộng khắp vùng ven biển miền trung. Bánh ít lá gai Bình Định nổi tiếng vì hương vị thơm ngon. Khi đi chơi xa hay thăm người thân, người Bình Định thường làm, hoặc mua vài ba chục bánh mang theo ăn dọc đường, hoặc để biếu, làm quà. Dù để năm, sáu ngày sau, bánh vẫn ngon.

Nhất là vào những ngày Tết Nguyên đán, mồng Một, Rằm, Tết Đoan Ngọ (5-5) người Bình Định, rồi cả Quảng Ngãi, Quảng Nam, Phú Yên... đều làm, hay mua ba bốn chục chiếc bánh ít lá gai để cúng tổ tiên.

Ông bà thường dặn con cháu: ""Con gái Bình Định không biết làm bánh ít lá gai thì chưa thể làm dâu nhà chồng"". Làm nên chiếc bánh phải kỳ công, vất vả cùng với sự khéo léo, thành thục. Nguyên liệu phải đủ năm thứ: lá gai, gạo nếp, đường, đậu xanh và lá chuối. Lá gai luộc chín, cho vào cối quết nhuyễn. Gạo nếp giã, xay, nghiền thành bột. Đường thì nấu đến độ đặc sánh. Ba thứ nguyên liệu đó trộn, nhồi thật đều, rồi đem chia ra thành từng miếng. Đậu xanh đãi vỏ, đem hấp, giã mịn, viên tròn dùng làm nhân. Nhân điểm mấy miếng bí đao xắt hạt lưu, lá chuối hơ lửa gói bánh. Cho vào nồi hấp chín. Để nguội, khi ăn bóc lớp lá chuối, chiếc bánh lộ ra một mầu đen tuyền, bóng láng. Thưởng thức miếng bánh ta thấy được vị thơm rất đặc trưng, tinh khiết của lá gai, của gạo nếp, của đường, đậu xanh hòa quyện vào nhau. ở Bình Định, bánh thường mô phỏng hình nóc chùa.

Bánh ít lá gai - thứ bánh dân dã mà ngon ngọt, đậm đà, quyến rũ. Mỗi khi nhớ về xứ dừa Bình Định với bánh tráng nước dừa Tam Quang, người xa quê lại nao nao nhớ về vị thơm ngọt của bánh ít lá gai.
Ngày nay với nhiệp độ phát triển nhiều loại bánh mới, đóng hộp sang tọng. dần dần mai một đi một sản phẩm văn hóa của Bình Định. Là một dân bình định chính gốc dù có đi đâu khắp mọi miền tổ quốc chắc hẳn sẽ mãi còn nhớ món đặc sản này.

Thứ Năm, 22 tháng 5, 2014

Bánh khẩu thuy một nét rất riêng của Bắc Kạn

Vào mỗi dịp lễ hội Lồng Tồng, thứ bánh ngon không thể thiếu để dâng lên trời đất, để cúng thần linh cầu mùa màng bội thu, mưa thuận gió hoà là bánh Khẩu Thuy.
Bánh tròn như quả trứng chim cút, vàng óng vì được tẩm mật mía, ăn vừa ngọt, vừa thơm, giòn tan nơi đầu lưỡi với hương vị mang bản sắc riêng của người Tày.

Bước sang tháng chạp, bà con người Tày bắt đầu chuẩn bị nguyên liệu để làm Khẩu Thuy. Để làm được bánh ngon phải cần nhiều nguyên liệu, nhiều công đoạn và khá cầu kỳ. Họ lấy bèo tây đun lên lấy nước, lại lấy cây vông hoa đỏ đốt lên lấy tro. Dùng nước bèo tây và nước tro để ngâm gạo nếp. Ngâm cho gạo nở to rồi đem lên đồ. Một thứ không thể thiếu được khi làm Khẩu Thuy là khoai sọ. Khoai sọ cũng đồ lên cùng với gạo nếp, cho thêm một chút rượu vào. Bèo tây, tro vông để làm bánh nở được to, khoai sọ để bánh lên màu, rượu để bánh có vị thơm.

Sau khi đồ chín, cho tất cả vào giã. Giã Khẩu Thuy cũng như giã bánh dày. Giã đến khi cối bánh lên bọt trắng, giơ chày quá đầu người không thấy bột bánh dính đầu chày nữa thì mới được. Để giã được một cối bánh không phải đơn giản. Vậy nên, các cụ ngày xưa muốn thử sức con rể thì việc đầu tiên là cho giã một cối bánh dày. Giã càng nhanh, càng nhuyễn thì càng “đạt yêu cầu”. Giã bánh xong, đổ ra một cái mẹt to và cán cho thật mỏng. Chờ cho bánh nguội bớt, siu mặt thì đem cắt từng miếng hình quả trám hoặc hình vuông. Đem phơi khô tất cả để chờ đến tết hoặc ngày hội mới đem rang phồng lên. Rang Khẩu Thuy cho phồng hết cỡ để khi ăn không bị lợn cợn những miếng bánh dẻo chưa phồng hết cũng đòi hỏi phải có kinh nghiệm. Cho bánh vào chảo gang, lúc đầu cho lửa thật nhỏ để miếng bánh nóng, sau tăng lửa dần để bánh phồng đều.

Công đoạn cuối cùng để hoàn thành món bánh này là tẩm đường cho bánh. Đun sôi mật mía, trút bánh đã rán phồng vào đảo đều, sau đó, đổ ra mẹt đã tra sẵn một chút bột gạo rang. Để giữ được lâu, người ta cho vào túi nilông buộc kín sẽ khiến bánh không bị ỉu mà vẫn giữ được hương vị.Tại các hội Lồng Tồng của người Tày, thứ bánh này vẫn được bày bán để khách thập phương mua làm quà cho người thân. Từ lâu, nó đã trở thành một đặc sản rất riêng của Bắc Kạn.

Đặc sản măng Vầu Bắc Kạn

Cứ đến đầu tháng Chạp âm lịch, khi cơn mưa phùn bắt đầu đổ xuống, người dân trên khắp các bản làng ở Bắc Kạn lại gọi nhau lên rừng đào cái măng non, ríu ran như đi hội. Măng hái đầu mùa bao giờ cũng ngon hơn cuối mùa, từ hương vị đến độ giòn. Vì thế, người ta thường vào rừng tìm măng khi mùa xuân vừa tới.


Rừng Bắc Kạn có rất nhiều loại măng như: Măng tre, măng trúc, măng nứa, măng mai,... Nhưng nếu nói là đặc sản phải kể đến thứ "măng vầu" hay còn gọi là "măng đắng". Cây măng vầu có sức sinh sôi thật kỳ diệu, cứ đào hết đợt này măng lại lên đợt khác cứ tựa hồ như sấm gọi. Rừng vầu cứ khai thác hết năm này đến năm khác.



Theo kinh nghiệm của những người đi hái măng, vào đầu vụ những mầm măng vầu mới nhú còn có vị ngọt xen lẫn vị nhặng nhặng đắng, thế nhưng hễ có tiếng sấm hay bắt đầu từ tháng 2 âm lịch là măng lại chuyển sang vị đắng.

Ở Bắc Kạn, người ta có thể chế biến măng thành rất nhiều món hấp dẫn. Măng củ (loại măng vầu được đào lên từ trong lòng đất) vốn đặc ruột thì để hầm xương hoặc lạng thành từng lát mỏng và dài để cuốn thịt. Còn với loại măng cái (măng vầu đã lên tai xanh) vì có vị đắng nên muốn ăn được thì phải luộc kĩ với muối sau đó ngâm nước lạnh, phần thân măng thái mỏng xào tỏi, phần áo măng để cuốn thịt răm hấp chín.

Nhưng ngon hơn cả vẫn là món măng luộc chấm mắm tôm chanh ớt. Có thể luộc cả măng củ và măng cái. Người không ăn được đắng có thể ăn loại măng củ luộc, chất non ngọt của củ măng tạo cho món ăn một hương vị dìu dịu, mát ruột và rất dễ ăn. Những người sành ăn măng thì hay chọn ăn loại măng luộc thật đắng. Vì như vậy mới cảm nhận hết được sự thú vị của món ăn này, cái cảm giác đắng, chát cứ mất dần sau mỗi miếng nhai nhẩn nha thay vào đó là cảm giác thoang thoảng ngọt, nhẹ nhẹ cay, rất lạ. Và khi đã ăn một lần đều muốn ăn thêm lần sau.

Ngày xuân, lên với đồng bào Bắc Kạn, trong mâm cơm đón khách, sẽ chẳng thể nào thiếu được món ăn chế biến từ măng vầu. Dù chế biến cách nào, cái món ăn ấy vẫn chất chứa những cái hồn hậu, mộc mạc tinh nguyên của núi rừng. Đắng đấy, nhưng cũng thật ngọt ngào làm sao.

Tôm chua Ba Bể vị ngọt say lòng thực khách

Tôm chua Ba bể là món ăn ngon, có mặt ở nhiều nơi và nhiều vùng chế biến nhưng tôm chua ở Khang Ninh- Ba Bể có một hương vị rất riêng biệt của vùng miền núi Việt bắc. Du khách đến Bắc Kạn mà không được thưởng thức tôm chua Ba Bể thì thật sự đáng tiếc . Hiện nay cứ 5 ngày một phiên tôm chua được bày bán tại chợ Khang Ninh (trên đường du khách vào tham quan hồ Ba Bể) bởi lẽ nó không chỉ là món ăn quen thuộc của đồng bào miền núi nữa mà nó đã được nhiều du khách thập phương biết đến.


Ở vùng này người ta thường ăn tôm chua với thịt chân giò hoặc ba chỉ luộc kỹ thái mỏng, một đĩa khế chua, nem thính tai lợn, chuối xanh, búp đinh lăng, lá mậy sâu (loại cây trên rừng)...Quý khách đến đây giữa cảnh trời mây non nước của Ba Bể mà được nhấm nháp tôm chua thêm một chén rượu ngô nho nhỏ nữa sẽ thấy được cái cảm giác lâng lâng êm ái, thấm thía cái vị béo của thịt, vị cay của tỏi ớt ,vị thơm của riềng, của búp mậy sâu hoà quyên với vị ngọt của tôm thì quả là lý thú.

Chắc quý khách sẽ tò mò muốn biết cách chế biến tôm chua Ba Bể như thế nào mà có được hương vị đậm đà như vậy. Trước hết là cách chọn tôm: con tôm làm mắm chua phải đều nhau,mình tròn, béo, râu ngắn.

Con tôm mới bắt về còn đang nhảy tanh tách, nhặt hết rác, râu rửa sạch để cho ráo và xóc muối; đồ xôi chín (chọn loại nếp nương hạt tròn đều) dỡ ra giá để nguội sau đó trộn đều với men lá, thời gian để ngấm men tuỳ thuộc vào bí quyết mỗi gia đình; tỏi, ớt, riềng mỗi thứ một ít đập dập thái chỉ. sau đó trộn đều tôm, xôi và các loại gia vị trút vào vại đậy kín sau từ 7 đến 10 ngày ( theo thời tiết từng mùa) tôm bát đầu chua, đến ngày thứ 30 tôm bốc mùi thơm ngon lúc này theo khẩu vị mỗi người mà nêm thêm ơt, đường, bột ngọt. Sau một vòng du ngoạn Ba Bể du khách có thể tìm mua một vài hũ tôm chua mang về ăn dần hoặc biếu người thân của mình.

Tôm chua thường được ăn chung với thịt chân giò hoặc ba chỉ luộc kỹ thái mỏng, một đĩa khế chua, nem thính tai lợn, chuối xanh, búp đinh lăng, lá mậy sâu (loại cây trên rừng)…

Đến Ba Bể, sau khi du ngoạn, thưởng lãm cảnh trời mây non nước được nhấm nháp tôm chua thêm một chén rượu ngô nho nhỏ thì thật là thú vị. Cảm giác lâng lâng êm ái, thấm thía cái vị béo của thịt, vị cay của tỏi ớt ,vị thơm của riềng, của búp mậy sâu hoà quyện với vị ngọt của tôm như làm say lòng thực khách.

Lạp xường Bắc Kạn hun khói món ngon nổi tiếng

Lạp xường hun khói của miền núi là một trong những món ngon đặc sản của các dân tộc. Đặc biệt lạp xường Bắc Kạn có một vị đặc trưng không trộn lẫn ở các vùng quê khác hãy cùng tim kiếm và chia sẽ hương vị về món ngon đặc sản của Bắc Kạn này nhá.

Mỗi dịp tết đến, đã thành lệ, cứ đến khoảng 27, 28 tháng Chạp, người dân khắp các bản làng ở Bắc Kạn lại nô nức rủ nhau mổ lợn. Cứ hai, ba nhà chung nhau đụng một con. Thịt để làm nhân bánh chưng, làm các món kho, nướng, quay, luộc… ăn trong mấy ngày tết. Và bao giờ người ta cũng dành ra một ít lòng non, một phần thịt để làm lấy một vài cân lạp xường (có nơi còn gọi là lạp xưởng hay lạp sườn).


Làm lạp xường cũng rất cầu kỳ và công phu. Đầu tiên phải chọn lòng để làm lớp vỏ lạp xường. Lòng non để làm lạp xường phải chọn đoạn lòng đắng vì phần lòng này dai và khá dày, làm lạp xường mới được. Sau khi tuốt rửa sạch lại phải bóc, lột bỏ lớp vỏ ngoài của lòng đi, chỉ lấy lớp màng mỏng bên trong. Việc bóc lòng không khó, chỉ cần khéo léo và nhẹ tay một chút. Lòng bóc xong, thổi hơi vào cho phồng lên, buộc chặt hai đầu, đem hong chỗ thoáng gió. Khoảng một tiếng đồng hồ, bộ lòng se lại, mỏng và dai như ni lông. Thế là được phần vỏ lạp xường.

Để làm nhân lạp xường hun khói người ta chọn loại thịt nửa nạc nửa mỡ. Bởi nạc nhiều, lạp xường sẽ khô, sác; mỡ nhiều, lạp xường sẽ nhão, ăn mau ngấy nên loại thịt thích hợp nhất để làm lạp xường là thịt vai. Thịt được lạng bỏ lớp bì, thái miếng vừa phải, ướp muối, đường, bột ngọt. Và không thể thiếu một ít rượu trắng, một ít nước gừng và một ít quả mắc mật khô xay nhỏ ướp cùng. Theo kinh nghiệm của đồng bào nơi đây thì ướp thịt với rượu trắng và nước gừng như vậy khiến cho lạp xường sẽ có mùi thơm rất đặc trưng, để được lâu mà không bị hỏng.

Công việc phức tạp nhất là nhồi lạp xường. Với một chiếc phễu và một chiếc đũa, từ từ dồn thịt vào cho đầy phần lòng non đã chuẩn bị. Để dễ làm, cứ nhồi được chừng hai ba mươi phân thì buộc lại thành khúc. Thỉnh thoảng lại lấy kim châm vài chỗ cho khí thoát ra để lạp xường khỏi nứt. Nhồi xong thì đem lạp xường đi phơi nắng cho khô dần. Hoặc đem hong trên gác bếp. Hơi ấm của bếp lửa sẽ làm lạp xường se lại, săn chắc. Lạp xường được nắng, được hơi lửa, cứ ánh lên màu đỏ hồng của thịt nạc xen những đường vân trắng ngà của thịt mỡ trông thật hấp dẫn. Ngày 27, 28 làm lạp xường thì khoảng mồng 2, mồng 3 tết là ăn được.

Lạp xường hun khói khi đã khô thì để nguyên cả khúc đem chiên cho chín sau đó mới thái lát, khi ăn chấm với mắm gừng. Hoặc thái lạp xường thành các khoanh dầy vừa phải, chờ cho mỡ trong chảo thật nóng già thì cho lạp xường vào, đảo lên, rưới thêm ít nước mắm, rắc thêm chút hành tươi. Đĩa lạp xường hun khói thơm phức, mới trông đã thấy thèm. Cho nên ngày tết, dù có bao món ngon, lạp xường vẫn là món được mọi người đụng đũa nhiều hơn cả.

Lạp xường được làm bằng bàn tay của người Bắc Kạn có mùi của nắng vùng cao, mùi của khói bếp, thoảng mùi gừng, mùi rượu, mùi mắc mật thơm một cách đặc biệt. Vị dai của lòng, vị ngọt của thịt nạc, vị béo của mỡ hòa quyện với nhau, ăn thật ngon miệng. Thêm chút rượu nữa thì càng thêm khoái khẩu.

Bánh cooc mò lạ lẫm nơi thị thành

Bánh cooc mò đặc sản của Bắc Kạn một trong những món bánh ngon nổi tiếng của xứ này. Cùng tìm hiểu về một nét văn hóa và một tên gọi đặc sản Bắc Kạn khó nghe này nhá.
Làm bánh là tập quán và sở thích của cư dân miền núi, dân tộc Bắc Kạn có rất nhiều loại bánh cả bánh cho ngày thường và bánh làm trong các dịp lễ tết như bánh nếp, bánh sừng bò, sủi dìn, bánh trứng kiến., bánh áp chao... 
Coóc mò cũng là một loại bánh được bà con các dân tộc Bắc Kạn hay làm hơn cả. Mới nhìn qua nhiều người nhầm là bánh gio vì hình thức bánh coóc mò cũng giống như vậy . Bánh cũng được gói theo hình chóp nhưng lá gói bánh lại là lá chuối .


Để có được những chiếc cooc mò vừa dẻo, thơm lại đẹp mắt, người ta phải chọn những chiếc lá dong vừa xanh vừa mượt, không bị rách, bị sâu. Lá lấy về đem rửa sạch, phơi khô, để ráo nước. Công đoạn chẻ lạt làm dây gói bánh cũng được tiến hành rất tỉ mỉ. Lạt được làm từ cây thân giang hoặc cây mỡ, chẻ làm sao cho lạt nhỏ đều, mềm, dai để khi gói không làm rách lá bánh.

Bánh được làm từ loại gạo nếp thơm, trắng, hạt tròn đều, gạo được vo kỹ bằng nước được hứng từ các khe suối trên núi nên càng sáng và mẩy hơn.

Gạo phải để ráo nước, sau đó đem trộn lẫn với lạc sống đã giã nhỏ và thêm một chút muối cho vừa ăn.

Công đoạn gói bánh tưởng chừng đơn giản nhưng rất cần sự tỉ mỉ, khéo léo của các bà, các chị. Những chiếc lá dong được cuộn lại như hình cái phễu rồi đổ gạo và lạc đã trộn lẫn vào trong, vỗ nhẹ bên ngoài cho gạo xuống đều hoặc dùng chiếc đũa nhỏ xọc cho gạo nén chặt, sau đó mới gấp mép lá và dùng lạt buộc lại.
Bánh coóc mò ăn có vị đậm và thơm bởi được làm từ gạo nếp nương và lạc nhân đỏ . Ăn không ngán vì dễ ăn và mùi vị hợp với nhiều người, bánh coóc mò rất hợp với những bữa điểm tâm buổi sáng. Bóc chiếc bánh xanh rền, ăn dẻo, thơm bạn mới thấy hết ý nghĩa của món bánh này. Nếu ghé Bắc Kạn bạn đừng quên thưởng thức món ăn giản dị mà hấp dẫn này nhé

Khâu nhục món ngon đặc sắc của Bắc Kan

Khâu nhục món ngon đặc sản của vùng đất Bắc Kan, ai đã từng có dịp du lịch tới vùng đất này thì phải nếm thử mìu vị đặc sản Khâu Nhục này nhá mọi người. Hãy cùng đặc sản miền bắc tìm hiểu về món ăn có tên gọi tương đối lạ tai này nhá... là một món ngon có tiếng của tỉnh Bắc Kạn

Là món ăn đặc biệt mang đậm tính dân tộc của nhân dân Bắc Kạn. Ai đã một lần được thưởng thức thì khó có thể quên bởi mùi vị của món ăn rất hấp dẫn , không chỉ thơm ngon,béo ngậy mà còn rất bùi .


Món khâu nhục làm cũng lắm công phu, khoai được chọn phải là khoai môn Bắc Kạn, bên trong lòng khoai có vân màu tím . Thịt lợn phải là thịt ba chỉ ngon, luộc sơ qua,dùng tăm tre chọc bì thật kĩ ,tẩm ướp gia vị rồi đem quay, vưa quay vừa quết mật ong cho vàng bì . khoai cũng phải rán vàng . mọi thứ được xếp vào bát, cứ một miếng khoai,một miếng rhịt ,cho nhân được làm bằng thịt, nấm hương, mộc nhĩ ...đã xào lên trên hấp cách thuỷ khoảng 5 tiếng đồng hồ .

Thành phẩm khi xong được cho ra đĩa rất đẹp. Món khâu nhục làm cầu kì nhưng ăn lại rất ngon nên nhân dân Bắc Kạn thường dành vào những dịp đặc biệt như lễ tết, cưới hỏi và vào nhà mới . Chỉ cần thử một chút bạn cũng đủ cảm nhận được hết hương vị của món đặc sản này, vị béo ngậy của thịt, vị thơm của khoai dã hầm bở ... tất cả đều kết tinh trong món ăn. Ngưòi Bắc Kạn rất tự hào vì ngoài đặc sản cơm lam, bánh gio, tôm chua... còn có thêm món khâu nhục và họ không bỏ qua cơ hội để giới thiệu đặc sản của quê hương mình với thực khách gần xa .

Chè đỗ đãi món ngon đặc sản của Bắc Giang

Trong những món ngon khó quên đặc sản ở Bắc Giang, không thể không kể đến món chè đỗ đãi (đậu đãi) ngọt ngào của làng Mỹ Độ - một ngôi làng nhỏ nằm ven bờ sông Thương.
Bên cạnh các đặc sản có tiếng như: mỳ Chũ, bánh đa Kế, vải thiều Lục Ngạn… chè đỗ đãi là món đặc sản rất dẫn dã thường thấy vào dịp lễ, Tết.

Nghệ nhân Phan Thị Thêm ở làng Mỹ Độ đã có gần 20 năm gắn bó với món chè này. Cô cho biết để làm được một mẻ chè ngon phải trải qua nhiều công đoạn.

Trước khi nấu chè, phải ngâm đỗ vào nước trong vòng 3 tiếng. Đỗ sau đó phải đãi kỹ lưỡng, không còn sót vỏ hạt. Để đãi được hàng chục kg đỗ sạch vỏ trong thời gian nhanh nhất cũng đòi hỏi sự khéo léo của người trong nghề.
Đỗ đãi vỏ, đổ vào nồi, cho nước trên đốt ngón tay thì bắt đầu nổi lửa. Khi nấu phải dùng củi, vì củi giúp giữ nhiệt lâu, lại có thể điều chỉnh ngọn lửa cho phù hợp. Công đoạn này phải canh lửa thật khéo, vì lửa to, nồi chè dễ bén mà lửa nhỏ, đỗ sượng không chín đều cũng coi như hỏng.

Khi đỗ sủi phải hớt hết bọt, ninh cạn, giảm lửa, vần nồi chè trên bếp bằng nhiệt than củi cho đỗ chín đều. Khi đỗ bắt đầu nhuyễn, là lúc cho đường vào. Cứ 1 kg đỗ thì 1,3 kg đường, nếu thiếu đường, chè sẽ không sánh, dễ vữa khi đổ khuôn.
Sau khi cho đường vào, chè dễ bén nồi vì thế điều chỉnh ngọn lửa chỉ liu riu trên bếp. Lúc này, khâu quấy chè là rất quan trọng. Quấy liên tục, đều tay, càng quấy nhiều, chè càng nhuyễn, càng sánh. Đun nồi chè thông thường hết 5 tiếng thì riêng việc quấy chè đã mất gần 3 tiếng. Quấy chè đến khi chè trong nồi sóng sánh như mật thì cho vani vào và bắc nồi chè xuống bếp.



Để đĩa chè đẹp mắt, khâu múc chè cũng phải có kỹ thuật, phải múc khi nóng đổ đều tay quay tròn trên đĩa để chè thành khuôn, phẳng tròn. Lúc này rắc vừng đã rang chín vàng, sẩy sạch vỏ lên trên mặt đĩa chè.

Đêm trăng rằm sau khi thắp tuần nhang mời ông bà tổ tiên, đĩa chè được hạ xuống, chủ nhà ngồi nhâm nhi chè bên ấm trà xanh thật sảng khoái. Ngày nay, trong nhiều mâm cỗ, chè đỗ đãi được đặt trang trọng như một món tráng miệng khoái khẩu. Hơn thế, nhiều người còn coi như món quà quê hương được vận chuyển đi những vùng đất xa xôi.

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2014

Đặc sản rựu men lá của người Nùng, Bắc GIang

Rựu men lá, một tên loại rựu vô cùng lạ tai chắc hẳn chưa nhiều người miền trong biết được loại rựu này. Rự men lá của người Nùng là một trong những đồ uốn nổi tiếng của Bắc Giang và của vùng núi nơi đây mà ai khi nghe tên cũng mong một lần được thưởng thức loại rựu men lá này.
Ai đã từng đến vùng đất vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang), được thưởng thức rượu Kiên Thành – loại rượu được ủ bằng men lá đặc trưng của dân tộc Nùng nơi đây chắc không thể nào quên. Đó là rượu có hương thơm tự nhiên của lá cây rừng, uống rất dịu êm và đặc biệt là không bị đau đầu… hơn hẳn nhiều loại rượu khác.

Rựu men lá đặc sản của người Nùng

Rựu men lá đặc sản nổi tiếng nơi đây.

Cùng với các sản vật thơm ngon nổi tiếng của quê hương Lục Ngạn như vải thiều, cam đường Canh, nếp cái hoa vàng, mỳ Chũ, mật ong… thì từ lâu, sản phẩm truyền thống rượu men lá của người Nùng ở xã Kiên Thành (hay còn gọi là rượu Kiên Thành) đã được nhiều người biết đến như một đặc sản của vùng đất vải thiều. Chính bởi những đặc trưng riêng không thể pha chộn như: rượu luôn dịu êm dễ uống (dù nồng độ cao); luôn có hương thơm tự nhiên của lá cây rừng và đặc biệt là thực khách không bị đau đầu cho dù có vô tình uống đến say… nên sản phẩm rượu men lá Kiên Thành ngày càng được nhiều người ưa chuộng.

Tuy nhiên, để trưng cất được những giọt rượu men lá Kiên Thành thơm ngon nổi tiếng, bà con dân tộc Nùng ở nơi đây đã phải vất vả thực hiện nhiều công đoạn từ: việc lên rừng hái lá làm men, đến việc chọn gạo nấu cơm, rồi bắt men lá vào cơm, sau đó ủ men, rồi trưng cất rượu… Trong đó, mỗi một công đoạn lại đòi hỏi kỹ thuật và cả sự tỉ mỉ khéo léo riêng.

Để tìm hiểu sự tinh túy của rượu men lá Kiên Thành, chúng tôi đã tìm đến gia đình ông Lăng Văn Nam, dân tộc Nùng ở thôn Gai Đông, xã Kiên Thành, người đã có hơn 20 năm kinh nghiệm làm men lá rừng để cung cấp cho người dân địa phương nấu rượu. Ông Nam cho biết, nguyên liệu để tạo nên những chiếc men lá gồm có 5 loại cây theo tiếng Nùng gọi gồm: Cây trăm rễ, lá cây giời giời, cây hoa vàng, lá cây tai chó và cây vạt hương. Thiếu đi một loại lá cây rừng này, thì chất lượng rượu nấu sẽ ít thơm và không ngon. Sau khi vất vả đi hái đủ 5 loại lá cây này rồi, đầu tiên sẽ phơi khô nhằm bảo quản tốt. Bước tiếp theo đun dây và lá cây giời giời lên lấy nước để nguội, sau đó ngâm với gạo khoảng 2 tiếng. Sau khi ngâm xong đem gạo và 4 loại lá còn lại đi nghiền nhỏ về lặn lẫn với bột gạo, rồi ủ vào chấu và phủ kín lên.
Thêm chú thích


Thêm chú thích

Công đoạn trưng cất rượu và thử rượu men lá vừa mới trưng cất

Đó là những công đoạn cần thiết để tạo nên những quả men lá đặc trưng trong cách nấu rượu của người Nùng ở Kiên Thành. Tuy nhiên công đoạn nấu rượu Kiên Thành cũng công phu không kém. Với hơn 10 năm kinh nghiệm nấu rượu men lá Kiên Thành, hiện gia đình anh Lương Văn Vượng, chị Phùng Thị Thảo trung bình mỗi ngày nấu được gần 100 lít rượu để cung cấp cho thị trường trong và ngoài tỉnh Bắc Giang. Theo chị Thảo, muốn nấu rượu men lá ngon, trước tiên phải chọn được men lá của gia đình bảo đảm chất lượng. Sau đó chọn gạo ngon nguyên chất về xay ra. Lúc nấu cơm phải nấu thật chín rồi “bắt men lá” vào cơm cho đều đến từng hạt (bắt men càng đều thì sau này rượu càng ngon); tiếp đến phải ủ kín cơm đã bắt men vào thùng nhựa kín từ 2 – 3 ngày, không được mở; tiếp đến cần ủ khô cơm đã bắt được men lá từ 10 đến 12 ngày nữa. Sau đó mới được đổ nước vào cất thành rượu. Ở công đoạn trưng cất rượu, bà con người Nùng sử dụng phương pháp cất ba ba (lưu ý ba ba phải được làm bằng gỗ mít và ống dẫn rượu được làm bằng tre thì rượu mới ngon); trong quá trình cất phải đun đều lửa, không cho cháy to quá cũng không nhỏ quá để rượu ra từ từ. Nếu đun to qua rượu ra nhanh sẽ mất mùi thơm. Thông thường mỗi kg gạo bà con nơi đây trưng cất được 1 lít rượu men lá.

Cũng bởi những đặc trưng của rượu men lá Kiên Thành là uống dịu êm và có hương thơm tự nhiên nên không ít người lần đầu uống rượu Kiên Thành cứ ngỡ rằng rượu nhẹ, họ thoải mái nâng ly trong cuộc vui rồi say tự lúc nào không biết. Có một điều hay là tuy chếnh choáng hơi men của rượu Kiên Thành nhưng người uống không bị đau đầu và khi hết hơi rượu lại tỉnh táo như thường, không bị mệt mỏi. Vì thế mà đã từ lâu, rượu Kiên Thành đã trở thành thương hiệu nổi tiếng sáng ngang cùng với các sản vật khác của núi rừng Lục Ngạn như vải thiều, mỳ Chũ, mật ong…

Nhớ mãi hương vị ngọt lịm vải thiều Lục Ngạn

Vải thiều một trong những đặc sản nổi tiếng của huyện Lục Ngạn, Nhắc đến vải thiều Lục Ngạn ai trong mổi chúng ta đều có một cãm nhận được vị ngon ngọt đặc trưng của loại đặc sản Bắc Giang này khi mà đã được một lần nếm thử. Vải thiều Lục Ngạn luôn luôn là một thương hiệu trái cây nổi tiếng.
Nằm cách thành phố Bắc Giang 40 km về phía Đông Lục Ngạn là một huyện miền núi được thiên nhiên ban tặng nhiều thắng cảnh đẹp như hồ Khuôn Thần, Cấm Sơn, đập Làng Thum… Khí hậu của Lục Ngạn khá ôn hoà với nền nhiệt độ trung bình thấp. Đặc biệt Lục Ngạn còn được biết đến là địa phương có nhiều sản vật nổi tiếng nhất là quả vải thiều.


Từ thành phố Bắc Giang thẳng quốc lộ 31 mất khoảng 1 giờ xe chạy chúng ta đến thị trấn Chũ trung tâm huyện Lục Ngạn. Nếu đến Lục Ngạn vào khoảng tháng 3 bạn sẽ được thưởng thức cảnh trí nên thơ của Lục Ngạn khi hoa vải nở trắng bên những vòm đồi lúp xúp và xa xa thấp thoáng những mái nhà của người dân địa phương. Nhưng vào khoảng thời gian từ cuối tháng 5 đến đầu tháng 7 Lục Ngạn trở nên đông đúc, nhộn nhịp lạ thường bởi vải thiều đã vào mùa thu hoạch. Vào khoảng thời gian này đứng ở bất kỳ đâu trên đất Lục Ngạn phóng tầm mắt ra xa bạn cũng bắt gặp hình ảnh những chùm vải chín mọng đỏ lúc liủ trên cây. Đây cũng là mùa người dân Lục Ngạn bận rộn nhất trong năm. Bởi ở Lục Ngạn nhà ít cũng có vài chục cây vải, nhiều thì hàng trăm, hàng nghìn cây. Mọi người ai nấy đều tập trung cho việc thu hoạch vải thiều và trên những gương mặt mướt mát mồ hôi do lao động vẫn ánh lên những niềm vui được mùa sau một năm lao động vất vả. Hiện toàn huyện Lục Ngạn có khoảng 20.000 ha vải thiều mỗi năm cho sản lượng khoảng từ 60 đến 70 ngìn tấn. Vải thiều Lục Ngạn Bắc Giang được ưa chuộng trong cả nước vì thế vào mùa vải các thương lái từ nhiều tỉnh như Hà Nội, Quảng Ninh và các tỉnh phía Nam như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng…đến thu mua. Vải thiều còn được xuất khẩu sang một số nước khác như Trung Quốc, các nước ASEAN và được chế biến thành vải thiều sấy khô, đóng hộp để xuất khẩu và phục vụ người yêu thích vải thiều có thể được thưởng thức quanh năm. Vào thời điểm này tại Lục Ngạn đã có rất nhiều đại lý thu mua vải thiều của người dân địa phương được hình thành tại các điểm tại thị trấn Chũ, xã Phượng Sơn, Quí Sơn, Trù Hựu…. Các đại lý này sẽ mua gom vải của người dân trên địa bàn rồi ký hợp đồng bán lại cho các thương lái từ nơi khác đến.

Vải thiều được trồng ở Lục Ngạn khoảng vào những năm 90 của thế kỷ trước bởi những người nông dân quê gốc Hải Dương. Với sự cần mẫn hay lam hay làm người dân Lục Ngạn đã biến những vùng đồi khô cằn trước đây thành những đồi vải bạt ngàn mang lại sự no ấm cho những người trồng vải. Cây vải ở Thanh Hà vốn đã thơm ngon nổi tiếng lại được trồng ở vùng đồi đất đỏ pha lẫn sỏi trong vùng khí hậu ôn hoà của Lục Ngạn đã tạo thành một thứ quả ngon ngọt khiến người thưởng thức mê ly. Có thể nói mức độ thơm ngon của vải thiều đã vượt qua vải Thanh Hà và dành được rất nhiều cảm tình của người sành hoa quả trong cũng như ngoài nước. Quả vải thiều Lục Ngạn có đặc điểm khi chín có màu đỏ, vỏ mỏng, hạt nhỏ cùi dày khi ăn vải thiều có vị ngọt đậm khiến người ăn cứ muốn thưởng thức thêm và muốn mua thật nhiều để làm quà cho người thân.

Trong chuyến hành trình đến Vải thiều Lục Ngạn thăm vùng đất và thưởng thức vị thơm ngon vải thiều Lục Ngạn nổi tiếng các bạn có thể đến thăm hồ Khuôn Thần nằm cách thị trấn Chũ 10km. Hồ Khuôn Thần rộng 240 ha với nhiều đảo nổi có vẻ đẹp thanh bình, khí hậu mát mẻ được bao bọc bởi những đồi thông xanh tốt quanh năm. Tại Khuôn Thần các bạn có thể dạo chơi trên hồ bằng những chiếc thuyền nhỏ và đến thăm các trang trại của người dân địa phương. Từ thị trấn Chũ nổi tiếng với Mì chũ các bạn cũng có thể đi thêm hơn 35 km nữa đến hồ Cấm Sơn, đi thăm trại nuôi cá nước lạnh, cắm trại trên đảo và bạn có thể ngỡ ngàng về vẻ đẹp thơ mộng của hồ….

Nhớ hương vị xôi trứng kiến Lục Ngạn, Bắc Giang

Xôi trứng kiến Lục Ngạn, thưởng thức món xôi trứng kiến lạ lẫm khó quên, về Lục Ngạn Bắc Giang thưởng thức đặc sản có một không hai là món xôi được làm từ trứng kiến. Hãy cùng với đặc sản miền bắc tìm hiểu thêm về món xôi trứng kiến đặc biệt này nhá các bạn.
Xôi trứng kiến một món ăn đặc sản khó quên của Lục Ngạn
Kiến đen thường làm tổ trên thân vầu. Những bãi vầu mọc ken dày đặc là nơi cư ngụ của loài kiến đen. Tổ kiến to bằng hai, ba vốc tay, dễ trông thấy từ xa. Tổ thường được xây chỗ đốt cây vầu có mắt và chỉa ra cành dăm. Đó là chỗ bám chắc nhất.

Lấy trứng kiến làm món xôi đặc sản

Đi lấy trứng kiến chẳng có gì khó. Vít cây vầu, chặt những tổ kiến đem ra chỗ đất trống. Sau đó cầm dao bổ đôi tổ kiến, gõ cho trứng rơi xuống mẹt. Những cái trứng trắng phau nhỏ như hạt gạo nếpvung vãi. Những con kiến thợ bị rũ ra từ trong tổ bất giác bừng tỉnh thấy cuộc sống bị đe dọa, chúng rối rít ôm lấy một quả trứng rồi lao đi tán loạn dù chẳng biết có thoát hiểm không, nhưng còn sống còn đi, và không thể quên bồng theo quả trứng. Một bản năng về trách nhiệm duy trì giống nòi luôn thức trong loài vật li ti lớn hơn đầu que tăm. Mỗi khi một con bám được vào tay người chúng giận dữ ghé chiếc hàm bé xíu cắn rứt gây ngứa ngáy đến khó chịu. Lấy được bát trứng kiến về làm xôi, người ta phải phá đến cả vài chục tổ kiến và hàng triệu kiến đen tan nát cửa nhà, hàng triệu kiến đen lìa đời.

Sau khi rũ được lưng mẹt trứng thì dùng khăn ẩm phủ lên mặt mẹt rồi kéo qua kéo lại cho nhũng con kiến chết dính hết vào lớp tua sợi trên mặt khăn, làm cho đến lúc mẹt trứng trắng phau.

Được bát trứng kiến đồ xôi quả thật là một kỳ công.

Vị bùi béo đậm đà khi được ăn bát xôi trứng kiến bám riết tuổi thơ tôi, bám riết cả cuộc đời, kèm nỗi buồn thoáng chốc khi nhớ đến đàn kiến đen tán loạn…

Mùa xôi trứng kiến bây giờ chỉ còn ẩn trong kí ức.

Những bãi vầu, bãi hóp, bãi vẫn từ lâu đã không còn. Tôi bảo đó có phải là lí do để kiến đen thôi không còn làm tổ, thì thằng cháu con ông bạn vong niên cho biết: "Bây giờ rừng chia, khoảnh nào có chủ ấy nên không có những đàn trâu thả rông như những năm xưa. Không có trâu thả rông thì không có phân làm vật liệu cho kiến đen xây tổ. Với lại bây giờ trâu còn rất ít lắm, còn bao nhiêu ruộng mà cần đến trâu….

Cuộc sống đã chuyển sang hướng khác. Bát xôi trứng kiến chỉ còn trong kí ức lớp người như tôi. Những lớp sau này sẽ chỉ còn biết xôi trứng kiến trên tài liệu ghi chép.

Thứ Năm, 15 tháng 5, 2014

Về Bắc Giang thưởng thức đặc sản cua da nổi tiếng

Cua da bắc giang, đặc sản của da ở Bắc giang về bắc giang thưởng thức hết các món ẩm thực món ngon đặc sắc nhất xứ kinh Bắc. Hãy cùng đặc sản miền bắc điểm danh thêm một món cua da một sản phẩm đặc sản của người dân Bắc Giang nhá.

Cua da đặc sản nổi tiếng của Bắc Giang

Thưởng thức món cua da đặc sản nổi tiếng của Bắc GIang

Nếu có dịp về với đất Yên Dũng (Bắc Giang) vào cữ gió heo may về, thế nàobạn cũng sẽ được chiêu đãi một trong những món ngon và hiếm bởi lònghiếu khách của người dân nơi đây được chế biến từ Cua Da.

Có một loài cua sống trong các ghềnh đá ở đoạn sông Cầu chảy qua địa phận mộtsố xã ven sông huyện Yên Dũng (Bắc Giang) như: Đồng Việt, Đồng Phúc, ThắngCương mà dân trong vùng quen gọi là “Cua Da”. Loài cua này rất đặc biệt ở chỗ chỉxuất hiện và khoảng đầu Đông trong thời gian khoảng 2 tháng (tháng 9 và tháng 10âm lịch) hàng năm.

Đây là một loài cua sông to gần bằng con ghẹ, về hình thức cơ bản cua da trông giống loàicua đồng, nhưng chân dài, mình to gấp ba, bốn lần cua đồng và mang một số đặcđiểm khác biệt với họ nhà cua. Đó là hai càng của giống cua này có hai lớp lông nhưrêu bám vào, yếm cua cũng có lớp diềm rêu điệu đà. Chính cái lớp lông rêu này đãkhiến nhiều người băn khoăn về tên gọi của loài cua này là: “Cua Da, Cua Da hay làCua Gia?”. Có người nói rằng phải gọi là “cua ra” vì gắn với câu tục ngữ “Thángchín cua ra, tháng ba cua vào”. Có người lại nói phải gọi là “cua da” vì loài cua nàycó một lớp da trên càng. Có người lại bảo phải gọi là “cua gia”, vì đơn giản tên gọiấy nghe có vẻ hay hơn, hợp lý hơn.

Theo anh Phạm Văn Trường, 42 tuổi ở xóm Cựu Trên, xã Đồng Phúc, Yên Dũng-người có thâm niên trong nghề thu gom và bán Cua Da cho các nhà hàng đặt sẵntrong huyện, thành phố và một số tỉnh Bắc Ninh, Hà Nội cho hay: “Khoảng hơn 10năm về trước, người đi chài lưới rất ghét loại cua này vì nó rất tanh. Nhưng từ khingười dân biết ăn cua bằng cách hấp bia, có xả, gừng nhâm nhi cùng thứ rượu nếpthơm nồng nút bằng lá chuối; biết giã ra nấu riêu ăn với bún có kèm rau sống cùngmột chút hoa chuối thì nó trở thành đặc sản”.

 Thu nhập từ cua đã giúp một số hộ dân nơi đây giảm nghèo, có cuộc sốngấm no. Tuy nhiên, do giá trị tăng cao nên nhiều người đi săn lùng cua da, do vậylượng cua ngày càng hiếm. Đặc biệt, nó chỉ có ở một số khúc sông thuộc địa phậnvài xã vùng hạ Yên Dũng, và xuất hiện trong vòng hai, ba tháng rét cuối năm nên giátrị của cua da ngày càng tăng do xuất phát từ yếu tố “hiếm” mà thành “quý” chăng?

Theo kinh nghiệm của người dân làng chài nơi đây, Cua Da có thể được chế biếnthành nhiều món như: cua hấp bia, cua rang muối, cua chiên, cua giã nấu canh…Nhưng ăn cua da ngon nhất và đơn giản nhất là đem hấp bia. Bỏ cua vào thùng, xảnước và xóc mạnh cho sạch. Mỗi con cua to nặng từ 100g-200g, xếp vào nồi, rắcthêm chút bột canh, bỏ thêm xả, gừng, rót bia xâm xấp mình cua, đặt lên bếp. Đểlửa thật nhỏ, đun li ti cho đến khi bia sôi lăn tăn thì bật lửa to cho sôi bồng lên là bắcra. Lửa nhỏ để giữ cho càng và chân không bị rụng, đồng thời để gia vị ngấm, khửmùi tanh.

Khi cua chín có màu vàng cam rất hấp dẫn. Thịt cua ngọt, lớp vỏ ở chân và càng cua khámềm, khi ăn không cần dùng đến kẹp như cua hay ghẹ biển. Ăn cua da chấm bột canh phamù tạt kèm nửa quả chanh vắt vào thì không gì thú vị bằng. Thật cảm ơn cho người đưa móncua này vào thành món đặc sản. Nó không chỉ giúp người dân nơi đây tăng thêm thu nhập,mà còn góp phần đưa vùng đất này có thêm một món đặc sản “của hiếm Cua Da”.

Bánh đa kế đặc sản quê dân dã của Bắc Giang

Bánh đa kế, bánh đa kế đặc sản Bắc Giang, tìm hiểu cách chế biến và làm ra món bánh đa kế đặc sản Bắc Giang. Từ một món ăn miền quê dân dã, bình dị, ngày nay bánh đa nướng trở thành đồ ăn không thể thiếu trên bàn nhậu của người dân thành thị. Nói đến bánh đá nướng, ngon và nổi tiếng nhất phải kể đến bánh Kế ở Bắc Giang. Món ăn chơi tưởng chừng khô khốc lại trở nên giòn tan, bùi lạ dưới bàn tay khéo léo của người dân làng Kế - ngôi làng cổ thuộc xã Dĩnh Kế, thành phố Bắc Giang.
Bánh đa kế món quà quê dân dã
Vào những ngày nắng khi đi ngang qua Dĩnh Kế, ai nấy đều thích thú trước khung cảnh hàng trăm chiếc phên phơi bánh đa tròn, trắng muốt, dọc theo quốc lộ 1A, trong đường làng, ngõ xóm, sân nhà. Người dân làng Kế làm bánh đa quanh năm, đặc biệt nhộn nhịp vào những lúc nông nhàn. Bánh đa kế thoạt nhìn cũng giống bánh tráng nước dừa Bình Định nhưng khi ăn lại có hương vị hoàn toàn khác, và cũng không giống như bánh tráng Mỹ Lồng của bến tre luôn.. mà nó có một vị rất khác, rất đặc trưng của nơi này.

Để làm nên những chiếc bánh đa kế mang đậm đà hương vị quê hương, thoạt nhìn rất đơn giản, nhưng thực ra lại đòi hỏi sự công phu, khéo léo. Nguyên liệu chính làm bánh đa Kế là gạo loại ngon, ngâm nước để căng mọng rồi xay nhuyễn, tạo thành bột mịn, trắng muốt. Theo kinh nghiệm của người dân làng Kế, để có được chiếc bánh hảo hạng thì khâu quan trọng nhất là tráng bánh.

Tuy tráng bánh đa có nhiều điểm tương đồng với tráng bánh cuốn nhưng nó đòi hỏi kỹ thuật đặc biệt khéo léo của người thợ lành nghề. Là loại bánh dùng để nướng nên khi tráng phải dày hơn. Bánh được tráng hai lần, sau khi lớp một chín nhưng vẫn còn ướt, lớp hai được trải đều ngay trên lớp một, tuy nhẹ tay nhưng đều và phẳng.

Trăm hay không bằng tay quen, hàng trăm chiếc bánh tráng ra lò đều chằn chặn cả về kích thước lẫn độ dày. Chúng được khéo léo lấy ra khỏi nồi hơi bằng cách quấn quanh một ống nứa to và dài rồi trải đều ra phên, mà bánh vẫn không hề bị rách hay méo mó.

Điểm đặc biệt dễ nhận ra ở bánh đa Kế chính là lớp vừng lạc ở bên trên. Do đó, trước khi đem bánh ra phơi, người làng Kế thường rắc rắc một lượt vừng đen cùng lạc sống giã giập lên mặt bánh còn bốc hơi nóng hổi. Tuy nhiên, không phải rắc thế nào cũng được. Lạc vừng rắc phải đảm bảo trải đều trên mặt bánh, nhưng tập trung ở phần tâm để khi nướng lạc vừng chín tới. Điều này không những giúp bánh đa Kế ăn vừa miệng mà còn vừa mắt người ăn.

Phơi bánh đa kế đặc sản Bắc GIang cũng đòi hỏi kỹ thuật được đúc kết qua nhiều năm. Nắng không quá nhạt nhưng cũng không được quá gắt. Khi đủ thời gian để bánh se mặt nhưng vẫn dẻo, người làm nghề phải kịp thời gỡ bánh cho khỏi dính vào phên tránh bị vỡ, hoặc thủng, rồi mới lật bánh sang mặt bên kia và phơi tiếp cho đến khô kiệt, bánh mới giòn.

Trước khi đem bán, bánh được nướng quạt trên than hoa đỏ lửa. Khâu nướng không chỉ làm chín bánh mà còn giúp định hình dáng bánh. Một tay cầm bánh đa, một tay cầm chiếc quạt nan, người nướng phải quạt đều tay, liên tục, những chiếc bánh đa được lật đi lật lại thoăn thoắt cho đến khi chuyển sang màu vàng rộm, mùi hương thơm tỏa. Thi thoảng họ dừng lại uốn những chiếc bánh cho khỏi bị vênh, tròn đều.

Khi ăn những chiếc bánh đa có vị bùi, ngọt, giòn và thơm lừng. Thưởng thức món quà quê dân giã ấy là trải nghiệm một phần văn hóa trong đó mà theo như người Dĩnh Kế, đó là thưởng thức một loại hình ẩm thực truyền thống. Nó gợi nhắc đến hình ảnh những phiên chợ quê vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nơi các bà các mẹ vẫn hay đi chợ mua bánh đa Kê về làm quà cho con cháu.

Rựu làng Vân đặc sản không thể thiếu của Bắc Giang

Rựu làng Vân của Bắc Giang là một trong những đặc sản nổi tiếng của xứ này. Rựu làng Vân được ví và so sánh như Bàu Đá của BÌnh Định. Đặc sản Bắc Giang sẽ là thiếu sót nếu không nhắc đến thứ đồ uốn tinh hoa này. Hãy cũng đặc sản miền Bắc tìm hỉu và thưởng thức món đặc sản rựu làng Vân của Bắc Giang này nhá.

Du khách đến với Bắc Giang, say cảnh đẹp Bắc Giang, cảm cái tình người Bắc Giang và những tinh hoa ẩm thực vùng Kinh Bắc và để đến khi chia tay vẫn còn lưu luyến, vẫn còn quấn quýt không muốn rời. Cái cảm mến ấy đã được Hoàng Tuấn Anh- GĐ Trung tâm TTXTDL Hải Phòng cảm nhận. Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

Vân Hà, một địa danh nổi tiếng thuộc huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, nơi lừng danh với đặc sản rượu làng Vân, thứ rượu đặc biệt thơm ngon đã làm biết bao người “say” trải qua nhiều thế hệ. Để đến cả những người đã thưởng thức của ngon vật lạ khắp bốn phương như bậc Đế vương Lê Hy Tông cũng chẳng kiệm lời ban sắc phong ngợi ca bằng mỹ từ “Vân hương mỹ tửu”. Người làng Vân nói riêng và người Bắc Giang nói chung tự hào với nghề nấu rượu làng Vân bởi qua mấy trăm năm, dưới các triều đại phong kiến, thứ rượu này từng là lễ vật tiến vua và thường xuyên sử dụng thưởng ẩm trong những yến tiệc chốn cung đình.


"Vân hương mỹ tửu lừng biển Bắc

Chiến công Như Nguyệt rạng trời Nam"

Rượu làng Vân nổi tiếng thơm ngon nhiều người biết. Đối với những người sành rượu và ưa thích những loại rượu dân tộc thì rượu làng Vân là thức uống đặc sản vùng miền có thể sánh ngang với bất cứ một loại whisky hảo hạng nào trên thế giới bởi vị đậm đà đặc trưng của hương nếp cái hoa vàng, hương thơm nồng của tới 35 vị men thuốc bắc bí truyền, cái êm dịu của thứ rượu được chắt lọc và ủ kỹ để lọai bỏ hết cái sốc của mùi cồn và hàm lượng aldehyde. Còn đối với những người không sành rượu thì chỉ một lần thưởng thức rượu làng Vân cũng đủ để không thể quên được bởi cái cảm giác ngọt ngào như đang nhấm nháp một ly cocktail hoa quả thơm mát lấn át vị cay nồng, càng uống càng mềm môi, uống từ lâng lâng tới lịm dần và khi tỉnh dậy chẳng có cảm giác của người vừa say rượu.

Rựu làng Vân đặc sản nổi tiếng của Bắc Giang
Giữa một thế giới rượu tây ta đủ loại ngày nay, về đất Kinh Bắc, thưởng thức đặc sản rượu làng Vân cùng những người bạn nơi đây tôi thật sự cảm thấy mình “say”. Say không chỉ bởi những ly rượu mềm môi thơm nồng, say không phải vì những chiếc bình gốm đựng rượu quý không bao giờ cạn, mà “say” cái tình, cái nghĩa từ những cái bắt tay thật chặt, “say” những liền anh, liền chị đất Bắc Giang giàu lòng hiếu khách nức tiếng từ ngàn xưa qua những làn điệu quan họ say đắm gọi mời.


Có về đất Bắc Giang thưởng thức rượu làng Vân mới hiểu hết ý nghĩa của hảo từ “Mỹ tửu”, mới hiểu hết ý nghĩa của việc thưởng thức rượu bởi rượu không chỉ cần phải thơm, ngon mà cách ứng xử trong văn hóa uống rượu cũng cần phải đẹp, chẳng thế mà mấy trăm năm về trước các bậc vua chúa lại chọn rượu làng Vân làm thứ để thưởng ẩm trong chốn cung đình quyền quý, cao sang. Chẳng thế mà không chỉ các bậc tiền bối xưa dành lời ca tụng bằng hảo từ “Mỹ tửu” mà những nghệ sỹ nay cũng cảm tác nên những lời hát đắm say:
Sông Cầu đầy, sông Cầu lại vơi, rượu Vân một chén cả đời vẫn say.
Rượu làng Vân chẳng uống mà say, nhớ câu quan họ mơ ngày xa xôi.

Về Bắc Giang thưởng thức mỳ chũ đặc sản nổi tiếng

Mỳ chũ đặc sản Bắc Giang một trong những đặc sản ngon nổi tiếng nhất của vùng đất này. Mỳ chũ cũng là mỳ nhưng cách làm và cách chế biến thì giống bánh tráng Bình Định, không giống như các loại mỳ khác.  Mỳ chũ Bắc Giang từ lâu đã trở thành thương hiệu, một trong những món quê hương được nhắc đến nhiều nhất khi du lịch Bắc Giang . Hãy cùng đặc sản miền bắc cập nhật món ăn này nhá.

Cách Hà Nội chừng 1 giờ 30 phút đi xe máy theo đường Thăng Long - Nội Bài là tới thành phố Bắc Giang. Không hẳn là đi thăm thú, chỉ đơn giản là "phượt" một chuyến để ngó dọc ngang xem trên đường đi có những gì, để hít thở một chút không khí ở bên ngoài thành phố ngột ngạt ngày hè, để ngắm sông Hồng từ cầu Thăng Long lúc bình minh và khi hoàng hôn biếc tím.
Mỳ chũ đặc sản nổi tiếng của Bắc Giang
Đã về Bắc Giang là phải ăn mỳ Chũ và uống nước chè đắng. Các loại lẩu ở Bắc Giang đều có kèm mỳ Chũ - những sợi bánh mảnh, giòn, được bó lại thành từng bó, gọn gàng đặt trong đĩa. Khi ăn cho vào nồi lẩu nhúng đến chín. Bánh chín rất mềm, dai, khi ăn cảm nhận được vị dẻo và thơm của gạo. Mỳ Chũ Bắc Giang khi nhúng và nấu trong nồi lẩu không bị đục nước nên được người dân rất ưa chuộng. Một nồi lẩu thập cẩm ở Bắc Giang ăn với mỳ Chũ khá rẻ, ăn đến no và uống đến say cũng chỉ hết 200 đến 300 ngàn đồng cho 4 - 5 người.

Đến với Bắc Giang, nếu đã một lần được ngồi vỉa hè và nhâm nhi ly chè đắng Cao Bằng trên miền đất của những làn điệu quan họ, bạn sẽ không thể nào quên được cái cảm giác thú vị, gật gù bên câu chuyện mưu sinh đêm của những chủ quán cóc nơi này. Chè thơm ở một cung bậc rất khó diễn tả. Hơi chè lảng vảng bốc lên trong những ngày đông, ấm lòng. Nhấp một chút để quen vị đắng, uống thật từ tốn, và cảm nhận vị ngọt còn lại đọng trên đầu lưỡi.

Các quán cóc bán chè đắng tập trung ở trung tâm thành phố, ở công viên, khu nhà ga, bến tàu. Quán nào cũng có cùng một kiểu ly Nhật Bản lùn, trắng, giữ nhiệt tốt. Chỉ nhìn màu chè xanh sóng sánh trong ly cũng đủ xao lòng...

Mỳ làng Chũ là đặc sản Bắc Giang, cách trung tâm thành phố không xa, nên bạn có thể đến tận nơi sản xuất để mua về làm quà. Chắc chắn, nó sẽ là món quà ý nghĩa cho chuyến "phượt" ngẫu hứng của bạn về Bắc Giang.

Bánh Tro, món ngon dân dã đặc sản Bắc Giang

Bánh tro (hay còn gọi là bánh gio)- ngay cái tên gọi đã khiến ngườinghe liên tưởng đến một món ăn đậm chất quê. Thực vậy, cũng như nhữngmón bánh khác, bánh tro là một món ăn dân dã, mộc mạc, dễ làm và rấtngon. Đây là một thức quà từ lâu đã trở thành đặc sản ẩm thực ở làng ĐaMai, xã Đa Mai, thành phố Bắc Giang (Bắc Giang)…

Sở dĩ có tên gọi là bánh tro vì nước dùng để ngâm gạo làm bánh và luộcbánh đều được lấy phần nước trong, lắng từ nước tro (gio) của nhiều loại cây khácnhau. Nếu như đối với nhiều nơi, bánh tro chỉ được làm vào các dịp Tết Đoan Ngọ(mùng 5 tháng 5), Tết Nguyên Đán thì với người dân làng Đa Mai bánh tro đượclàm hàng ngày để mang đi bán rộng rãi ở các chợ, ngõ phố và một số quán ăn dântộc trong khu vực nội thành.

Nguyên liệu để làm bánh tro rất đơn giản, gồm: gạo nếp, nước tro lá tầmgửi, vỏ bưởi, quả xoan, cây dền gai, rơm nếp (những thứ này được phơi khô rồi đốtthành tro)…, nước vôi trong, lá chuối hoặc lá dong. Làm bánh tro phải trải quanhiều công đoạn công phu và tỷ mẩn của những bàn tay khéo léo, từ khâu chọnnguyên liệu đến cách làm. Gạo để làm bánh phải là loại nếp cái hoa vàng, nhặt hếtnhững hạt tẻ lẫn vào, vo gạo bằng nước thật sạch, để ráo. Nước để làm bánh lànước tro( sau khi đốt các loại lá) được đánh kỹ với nước vôi trong. Dung dịch nướcvôi và tro phải trong, có màu vàng hổ phách mới đạt yêu cầu, sau đó cho gạo vàonước này ngâm một đêm.Không nên ngâm gạo quá lâu, khi đó bánh sẽ bị nồng.Ngâm khi nào ta lấy 2 đầu ngón tay dihạt gạo thấy vỡvụn là được. Khi vớt gạo góibánh cần phải xả với nước thật sạch, xóc với một chút muối, để ráo. Đây là côngđoạn cốt yếu để tạo nên hương vị thanh mát của bánh. Lá dùng để gói bánh trothường là lá dong tẻ được luộc hoặc hấp, tước hết phần gân lá cho mềm, dai và dễgói hơn. Đặc biệt, lá phải được lau khô trước khi gói.

Theo chị Nguyễn Thị Minh-người có kinh nghiệm lâu năm làm bánh tro ởthôn Đình, xã Đa Mai thì một chiếc bánh đạt yêu cầu phải tạo được cảm giác ngonngay từ khi mới được bóc ra chứ chưa cần thưởng thức. Bởi vậy, dáng hình và màusắc của bánh là rất quan trọng. Người gói bánh phải khéo léo cho gạo vào lòngchiếc lá sao cho gọn, đều rồi quấn lá và bẻ mép ở hai đầu bánh cho thật khít, thậtđều và cân đối, sao cho chiếc bánh nhìn nuột nà và có hình dáng đặc trưng. Ngườidân Đa Mai thường gói bánh dài giống như chiếc chuôi liềm để bán hàng ngày. Cònbánh vuông chỉ gói khi có người đặt bày cỗ. Dây buộc bánh cũng không được quáchặt để khi đem luộc, hạt gạo nếp có thể nở và chín đều.

Nước luộc bánh cũng cho một ít nước tro, dưới đáy nồi được lót một ngòn măng tređập dập cho khỏi sát nồi, người luộc bánh sẽ dùng một rổ lớn đậy lên bánh, lấy mộtvật nặng đè lên rổ để bánh không nổirồi đổnước ngập hơn bánh ít nhất khoảng 15-20cm.Đặc biệt, khi gói và luộc bánh tối kỵ dây vào mỡ, có mỡ là bánh bị ngân,không nhừ. Bánh luộc khoảng 3 – 5 giờ là rền sẽ được vớt ra để nguội. Khi bóc tấmbánh là một khối ngọc màu hổ phách trong vắt lộ ra, có thể nhìn thấu bên trong khốingọc đó. Cắt từng miếng nhỏ, nhẹ nhàng chấm vào bát mật mía màu vàng óng, thơmphức rồi nhẩn nha thưởng thức mới thấy hết sự hòa quyện ngọt mát...

Ngày nay, bánh tro được coi như một thứ quà quê của ngườithành phố. Cứvào mỗi buổi sáng hay chiều,đi trên đườngta lại bắt gặp những gánh hàng bán rongđi quanh các con phốvà những tiếng rao rất đỗi quen thuộc mỗi ngày“ai bánh trođơi…ơi…ơi!”.

Hương chè Lam nồng ấm vị quê hương

Từ trung tâm Hà Nội, theo đường cao tốc Láng-Hòa Lạc, chúng tôi tìm về xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất - một địa phương thuộc ngoại thành Hà Nội từ lâu đã được biết đến với di tích văn hóa quốc gia Chùa Tây Phương và cả đặc sản chè lam ngon nổi tiếng khắp trong Nam, ngoài Bắc.

Giữa cái lạnh của mùa đông, được may mắn thưởng thức miếng chè lam mới ra lò còn nóng hôi hổi, chúng tôi như càng cảm nhận rõ hơn vị dẻo thơm của nếp xen lẫn vị cay ấm áp của gừng, của quế và cả nét văn hóa độc đáo ẩn chứa trong cách thức làm nên món quà quê dân dã này.

Vừa thoăn thoắt đôi tay cắt chè lam thành từng miếng để cho vào hộp, chị Nguyễn Thị Xuân ở xóm Tây Phương, xã Thạch Xá vừa xuýt xoa: "Các cô về muộn, chứ nếu đến đây từ sáng sớm, sẽ được xem làm chè từ công đoạn đầu tiên, mới thấy hết kỳ công của người dân làng tôi để có được bánh chè lam ngon nổi tiếng xứ Đoài”.

Chị Xuân cho biết, tất cả nguyên liệu để làm chè lam đều bắt nguồn từ những sản phẩm nông nghiệp rất giản dị như bột gạo nếp, củ gừng già, thanh quế thơm, mật mía… Giống nếp cái hoa vàng có hương vị thơm và dẻo đặc trưng luôn là lựa chọn của người làm chè lam Thạch Xá để có được bánh chè ngon.

Khác với đa phần các loại bánh làm từ gạo, bột bánh thường được xay trực tiếp từ gạo; chè lam Thạch Xá cầu kỳ hơn, được làm từ “bông hoa bỏng” của gạo nếp. Gạo nếp rang dưới bếp lửa đỏ hồng sẽ nở bung, cho “bông hoa bỏng” màu trắng nở bung, thơm lừng. Sau đó, bỏng gạo được sảy cho sạch, đem xay ra thành thứ bột mịn nhưng vẫn giữ được vị thơm bỏng nếp mới được coi là đạt yêu cầu.

Sau khi đã có bột bỏng, người làm chè sẽ chọn những cây mía nhỏ nhưng có vị ngọt đậm, thơm lừng thường được gọi là mía de để kéo mật rồi nấu lên với mạch nha cho đến khi có được một hỗn hợp dẻo và trong suốt.

Nói thì đơn giản nhưng theo nhiều người ở làng chè Thạch Xá, không phải ai cũng có thể làm thợ lành nghề trong khâu rang gạp nếp hay nấu mật vì đôi tay rang phải vừa đảo thật đều, lại phải vừa biết điều chỉnh ngọn lửa sao cho hạt nếp nở bung thơm lừng mà lại không hề bị khét, cháy vàng.

Vì thế nên ngoại trừ những hộ làm chè quanh năm, còn đa phần các gia đình ở Thạch Xá, vào những tháng cuối năm, để chuẩn bị đón Tết hay mang đi làm quà phương xa, thường nhờ đến những tay rang bỏng thiện nghệ trong làng như các anh, các bác Nguyễn Văn Thạch, Nguyễn Huy Hiến, Nguyễn Huy Đông...

Sau khi đã có bột và các gia vị sẽ đến khâu cho bột bỏng nếp và các loại gia vị vào quấy đều trong chảo. Để quấy được bột ngon, người làm chè phải kiên trì, đảo đều tay cho tới khi toàn bộ bột dẻo đều và thấm trọn các loại gia vị mới đem đổ vào khuôn, cắt thành từng miếng nhỏ và đóng hộp.

Bí quyết để có bánh chè lam dẻo thơm, nồng ấm vị gừng, vị quế, hương nếp cái hoa vàng, theo người làm chè Thạch Xá chính là sự kết hợp của tất cả các khâu từ rang bỏng, giã bột, quấy, trộn bột và pha trộn tỷ lệ hợp lý các gia vị. Vì vậy, chè lam Thạch Xá dù có để lâu ngày vẫn dẻo thơm, không bị chảy nước cũng không bị khô khi mang đi làm quà nơi xa.

Chè lam Thạch Xá bây giờ không chỉ có một loại sản phẩm truyền thống là chè lam với mật mía (hoặc đường) trộn nước gừng, hương quế, lạc rang mà còn có cả chè lam thịt rán. Vào dịp cuối năm, khách hàng từ các nơi thường tìm về Thạch Xá để đặt mua loại chè lam thịt rán đặc biệt này, làm quà cho nguời thân.

Bác Nguyễn Huy Đông - chủ hộ làm chè lam thuộc diện ”tầm cỡ” ở Thạch Xá cho biết, để có được bánh chè lam nhân thịt rán thật thơm, ngon, người làm phải chọn loại thịt săn,chắc, ít mỡ để đảm bảo cho bánh chè vẫn giữ được độ dẻo tốt. Nếu không chọn thịt cẩn thận, bánh chè sẽ bị đọng mỡ, nước từ thịt sẽ bị vỡ và hỏng rất nhanh.

Theo số liệu của Ủy ban Nhân dân xã Thạch Xá, vào những tháng cuối năm, hầu như gia đình nào ở đây cũng nổi lửa, làm vài mẻ chè lam để dùng cho những ngày đông lạnh giá. Còn những hộ “chuyên “ làm chè với số lượng lớn, xuất bán đi các nơi cũng lên tới hàng chục hộ. Những dịp cao điểm như Tết cổ truyền, lễ hội…có hộ mỗi ngày bán được cả tấn chè lam thành phẩm.

Chè lam Thạch Xá - một đặc sản ẩm thực dân dã, tuy không cầu kỳ và hào nhoáng như nhiều sản phẩm bánh kẹo khác nhưng từ lâu đã có sức hút đối với người tiêu dùng bởi sự kết hợp hài hòa của các sản vật thân thuộc từ đồng đất quê hương. Đặc biệt, với những người con xứ Đoài ở xa, khi được thưởng thức phong chè lam - món quà quê cùng với chén nước trà nóng sẽ như cảm nhận rõ hơn vị quê hương nồng ấm, đậm đà ẩn trong hương nếp, mật mía lẫn vị gừng cay sâu nặng tự thuở nào./.

Bánh tẻ Phú Nhi

"Em là con gái Phú Nhi

Bánh đúc bỏ bị vừa đi vừa nhòm."


Phú Nhi không chỉ được biết đến với món bánh đúc, mà còn nổi tiếng với một thứ bánh dân dã là bánh tẻ. Ai đã từng về Phú Nhi hẳn sẽ được thưởng thức món bánh trắng ngần, thơm ngậy mang đậm nét ẩm thực xứ Đoài ấy.
a

Phú Nhi xưa còn gọi là Bần Nhi, một thôn cổ có từ cuối thế kỷ 19, thuộc tổng Cam Giá Thịnh được gọi là Cam Thịnh, huyện Phú Lộc, huyện Quảng Oai, trấn Sơn Tây, nay thuộc phường Phú Thịnh, thị xã Sơn Tây, Hà Nội là làng nghề truyền thống bánh tẻ nổi tiếng trong vùng.

Bánh tẻ, có nơi gọi là bánh răng bừa vì có hình dáng giống cái răng bừa, là thứ bánh truyền thống ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bánh được làm từ bột gạo tẻ, gói ngoài bằng lá dong hay lá chuối và được luộc cho chín.

Mỗi địa phương có cách làm bánh tẻ riêng, ít nhiều khác nhau. Có thể kể ra một số loại bánh tẻ nổi tiếng như bánh tẻ làng Chờ (Yên Phong, Bắc Ninh), bánh tẻ Phú Nhi, bánh tẻ Văn Giang (Hưng Yên). Tuy nhiên, bánh tẻ Phú Nhi lại mang hương vị riêng không lẫn với các vùng miền khác. Nguồn gốc của bánh gắn với câu chuyện tình mộc mạc, chân thành của đôi trai gái trong làng.

Chuyện kể rằng: Nguyễn Phú ở Giáp Ðoài, con bà Trọng làm nghề bán dầu vỏ, bố là người nông dân hiền lành chất phác. Phú thông minh, khuôn mặt sáng sủa. Còn Hoàng Nhi là con bà Hương làm nghề nấu bánh đúc hằng ngày đem bán ở chợ gốc cây gạo còng ngày xưa. Phú và Nhi biết nhau qua những buổi chợ hằng ngày, vì Nhi phải đem hàng cho mẹ, cuộc tình cứ thế lớn dần theo ngày tháng.

Nguyễn Phú đánh bạo sang nhà Hoàng Nhi trò chuyện. Hai người ngồi tâm tình mà quên mất nồi bánh đúc đang nấu dở trên bếp lửa, khi mở ra thì đã quá muộn nồi bánh đúc nửa sống, nửa chín, ngọn lửa của bếp đã tắt tự bao giờ. Chuyện đến tai bố Hoàng Nhi. Là người rất nghiêm khắc, phong kiến, ông tìm mọi cách ngăn cản. Ông cấm Nhi mang hàng cho mẹ. Thế là từ đó hai người mãi mãi chẳng có dịp được gặp nhau. Hoàng Nhi ốm nặng rồi chết.

Lại nói chuyện Nguyễn Phú khi xảy ra chuyện hỏng nồi bánh đúc, chàng mang nồi bột về nhà và nghĩ bỏ đi thì tiếc nên chàng ra vườn ngắt lá dong, lá chuối khô lau sạch rồi thái hành làm nhân. Một mình tự thao tác phết bột vào lá dong, cuốn lá chuối khô bên ngoài, lấy dây giang cuốn lại rồi bắc lên bếp đồ (luộc) khi có mùi thơm bốc lên, Phú đoán là bánh chín, bóc ra để nguội ăn thấy ngon hơn bánh đúc và thế là chiếc bánh tẻ ở buổi bình minh sơ khai đã ra đời từ đó.

Phú đã làm nhiều bánh để mẹ mang đi chợ bán và hàng bánh ngày càng đắt giá, gia đình Phú trở nên khá giả, giàu có. Bánh làm ra càng nhiều Phú càng nhớ Nhi nhiều hơn. Những ngày giỗ nàng, chàng tự tay cải tiến cách làm bánh và làm những chiếc bánh thật ngon để gửi sang nhà cúng tưởng nhớ người yêu xưa và chàng cũng không lấy vợ chỉ mà chuyên tâm cho nghề. Từ đó, chàng đã truyền dạy lại cho nhiều người cùng làng làm theo.

Bánh tẻ được nhiều người biết đến và trở thành đặc sản của làng Phú Nhi. Nguyên liệu làm bánh là những nguyên liệu gần gũi với cuộc sống người nông dân như gạo tẻ, thịt lợn, mộc nhĩ, hành… và lá dong, lá chuối để gói bánh.

Để bánh trắng, thơm ngon người làng chọn thứ gạo ngon chứ không phải gạo thường. Trước hết, gạo đem ngâm nước cho nở, xay thành bột rồi đem ngâm nước khoảng 3-4 ngày vào mùa Hè, 4-5 ngày vào mùa Đông. Trong thời gian ngâm phải thay nước hàng ngày, gạn bỏ nước cũ thay bằng nước mới, mỗi khi thay nước phải khuấy đều bột để bột không bị chua và nhão.

Khi đã đủ thời gian ngâm, múc bột ra, cho một ít muối vào, gạn sạch nước cũ để khử chua bột. Sau đó thứ bột này phải đun lên cho đặc lại, có độ dính như keo, vừa đun và quấy đều, đảo bằng cả hai tay cho bột mềm, mịn, tránh vón cục và đặc biệt là bột không được chín hoặc khê, công đoạn này người ta gọi là "ráo bột." Khâu ráo bột cực kỳ quan trọng trong quá trình làm bánh, bánh có ngon hay không là nhờ vào chất lượng bột được ráo. Phú Nhi có bí quyết riêng trong khâu ráo bột nên bánh tẻ ở đây có hương vị độc đáo.

Tiếp đến là công đoạn làm nhân bánh. Nhân bánh tẻ làm đơn giản nhưng không thể làm qua loa, vì nhân là linh hồn của bánh. Thịt ba chỉ ngon băm nhỏ, hành khô bóc vỏ băm nhỏ, mộc nhĩ ngâm cho nở, thái chỉ. Tất cả trộn đều ướp gia vị vừa đủ, thêm chút hạt tiêu cho thơm. Sau khi hỗn hợp đã ngấm gia vị cho lên bếp xào chín.

Khi công đoạn làm nhân bánh và ráo bột đã xong, tiến hành gói bánh. Người Phú Nhi thường dùng lá dong và lá chuối để gói. Lấy một lượng vừa phải thứ bột cô đặc đó đặt lên một hoặc hai tờ lá dong công đoạn này gọi là "ra bột." Lấy hỗn hợp thịt đặt lên lớp bột và ấn sâu xuống để bột phủ lên thịt, thường là theo hình thuôn dài, cuốn lá dong ngoài bánh, lớp lá ngoài cùng là lớp lá chuối. Bánh được buộc lại bằng lạt hoặc dây chuối khô, sau đó đem hấp khoảng 30 phút là chín.

Bánh ăn ngon nhất là khi vừa mới vớt ra. Bóc vỏ lá xanh, chiếc bánh trắng ngần hiển hiện, mùi thơm nhân thịt tỏa ra như chào mời thực khách. Bánh ăn nóng chấm với nước mắn ngon, thêm chút tiêu thì càng ngon hơn.

Bánh tẻ là thứ quà quê chân chất mộc mạc, thứ bánh mà ai cũng có thể thưởng thức. Khi ăn, dùng con dao nhỏ cắt bánh thành từng miếng, xếp lên đĩa. Ăn một miếng để cảm nhận kết tinh của trời đất, độ giòn của vỏ bánh, vị đậm, béo của nhân, thơm mùi tiêu, hành. Bánh có thể thay bữa sáng, ăn chơi, ăn nhiều mà không bị ngán./.

Tào phớ Hà Thành hương vị đậm đà khó quên

Hà Nội vốn là một thành phố phồn hoa, đô thị nhưng lại không thiếu những món ăn rất bình dị, dân dã, mà có lẽ thiếu nó thì không thể có một Hà Nội cổ kính đặc trưng như ngày hôm nay. Tào phớ cũng là một món ăn như thế.

Dù là những ngày Hè nóng bức, ngột ngạt, hay những ngày mùa đông lạnh lẽo, buốt giá, những tiếng rao quen thuộc “Ai phớ..ớ.. đây! Phớ nóng đ...â...y...” vẫn vang lên đều đặn, đem đến cho người Hà Nội một cảm giác vừa thật quen, thật lạ.

Lạ bởi giữa phố phường ồn ào, hối hả vẫn thấy những gánh hàng rong hay những chiếc xe đạp đặc biệt chở những thùng tào phớ, rong ruổi khắp các đường phố, hang cùng ngõ hẻm, đem đến một món ăn rất thơm ngon mà đậm chất quê hương.

Vào những ngày Hè nóng nực, tào phớ thực sự là một món ăn “mát, giải nhiệt”. Chế biến tào phớ rất đơn giản, đậu tương sau khi được xay nhuyễn sẽ đem ép và lọc bã để ra được khối lỏng mềm mịn gọi là óc đậu. Óc đậu được đặt trong thùng tôn, hay trong những chiếc xoong nhôm nhỏ, khi có khách, người bán mới xắt óc đậu ấy ra bát (thường là dùng vỏ xà cừ để xắt) cho thêm nước đường cùng cánh hoa nhài hoặc hoa bưởi vào để tạo hương thơm.

Nhiều vị khách cầu kỳ hơn thì thay nước đường bằng nước đậu (cũng được làm từ đậu tương, nhưng chắt lọc lấy nước chứ không phải là óc đậu) hay chút thạch đen để tạo nên một hương vị riêng cho mình. Khi thưởng thức bát tào phớ mát lạnh, ta sẽ cảm nhận được mùi thơm thoang thoảng của hoa nhài, hoa bưởi, vị ngọt thanh của đường, vị mềm mịn, bùi bùi của đậu… Ăn một miếng đã thấy tâm hồn sảng khoái, dễ chịu, dường như mọi mệt mỏi, nóng bức đều tan biến.

Với mùa Đông, món tào phớ nóng là sự sáng tạo đặc biệt của những người “thợ” chế biến khéo tay. Chế biến tào phớ nóng cũng đơn giản như tào phớ lạnh.

Điều đặc biệt ở tào phớ nóng là ngoài đường kính trắng thông thường, người ta có thể sử dụng đường đỏ để pha chế kèm theo một chút gừng cho thêm ấm bụng. Lúc ấy, tào phớ sẽ mang một hương vị rất đặc biệt mà ăn một lần bạn sẽ nhớ mãi. Có cảm giác vị cay lan tỏa dần cùng hơi ấm từ trong bụng.

Ngày nay dù cuộc sống đã có nhiều thay đổi, đời sống được nâng cao, người Hà Nội không thiếu những món ăn ngon nhưng những món ăn truyền thống dân dã như tào phớ vẫn rất được ưa chuộng. Trong khí trời rét mướt của mùa đông, người ta thèm hơn cảm giác đầm ấm khi được ngồi bên gánh hàng rong và thưởng thức bát tào phớ nóng thơm ngọt.

Tào phớ giờ đây đã trở thành một món ăn quá đỗi gần gũi thân thuộc với người Hà Nội. Hình ảnh những gánh tào phớ rong ruổi trên đường phố, ngõ hẻm đem đến cho ta một cảm giác về một làng quê thật thanh bình, yên ả.

Có lẽ vì thế mà người Hà Nội gắn bó với tào phớ không chỉ bởi vị thơm ngon, man mát của nó mà còn bởi một hương vị rất đặc trưng, riêng biệt - hương vị của quê nhà./.

Bún chả Hà Nội nhất định phải ăn khi ra Bắc

Nhắc đến ẩm thực miền Bắc đặc biệt là đặc sản Hà Nội không thể biết đến bao giờ mới kể hết các món ngon đặc sản được. Bún chả cá Hà Nội là một trong những món ngon đặc biệt đó. Không giống như bún thịt nướng trong Nam, Bún chả Hà Nội có một nét rất riêng, một đặc sản nổi tiếng không thể không thưởng thức khi ra Hà Nội được. Hãy cùng đặc sản miền Bắc điểm danh món bún chả cá Hà Nội nổi tiếng này nhá.
Không phải tự nhiên, bún chả trở thành một trong những món quà bún được cả Thạch Lam hay Vũ Bằng hết lời ca ngợi. Cái món ăn giản dị mà thấm đậm hương vị làng quê Bắc Việt này cũng là thứ quà mà ai bước chân đến Hà Nội cũng cần thử.
Bún chả Hà Nội món ngon không thể chối từ
Cũng giống như nhiều món quà vặt, quà bún khác, bún chả có lắm địa chỉ ngon nổi tiếng ở Hà Nội bởi mỗi người lại có một địa chỉ ruột cho mình. Tuy vậy, trong bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ xin các bạn vài phút để đọc qua thêm về 3 hàng bún chả mà theo như chúng tôi thấy là có giá vừa phải mà hương vị vẫn vô cùng thơm ngon, đúng điệu.

1. Bún chả chợ Ngô Sỹ Liên


Hàng bún chả Hà Nội này nhỏ thôi, ai tinh ý và quen mới biết đường mà rẽ vào khi băng qua khu đông đúc này. Quán chỉ có vài bộ bàn ghế đơn giản nhưng nếu bạn đi đông, chủ hàng vẫn sẽ vui lòng mà kê thêm ra ngoài.

Nói về vấn đề chính, bún chả ở đây thì có gì đặc biệt hơn? Có gì ngon hơn? Chắc tại là khâu tẩm ướp, bác bán hàng đã làm rất thơm và vừa miệng rồi, khi nướng lại kẹp cùng lá lốt. Miếng chả thấm gia vị, thấm cả hương thơm chắt chiu từ miếng lá mỏng nên dậy mùi thơm phức. Nước chấm bác bán hàng lại pha vừa, chấm miếng thịt vào đó, rồi ăn kèm một ít bún rối, vài ba miếng đu đủ xanh giòn giòn, ăn đến đây thì bạn có ghét ăn món bún chả cũng chuyển dần sang... thinh thích.

Giá bún chả ở đây cũng không đắt, chỉ khoảng 30k cho một suất. Quán bán vào buổi trưa nhưng vì quá nhỏ mà lại đông nên bạn hãy tranh thủ đến sớm để được phục vụ tận tình hơn nhé.

2. Bún chả que tre Lương Ngọc Quyến

Nằm ở đầu ngõ Phất Lộc trên phố Lương Ngọc Quyến, có một hàng bún chả que tre khá nổi. Quán nhỏ, chẳng có biển hiệu, chẳng có cửa hàng mà chỉ có vài bộ bàn ghế, vậy nên vào những hôm trời mưa, bạn nên tránh đến.

Bún chả ở đây, ngon hơn nhiều nơi thì cũng không phải, nhưng chắc chắn, bạn ăn lần một sẽ muốn ăn lần hai, rồi lần ba và từ từ trong bạn sẽ dần hình thành cái thiện cảm vui tươi mỗi khi ngồi xuống ăn bún chả ở đây. Chả được nướng hoàn toàn bằng que tre, thế nên miếng thịt bên ngoài thì xém giòn giòn, bên trong lại cứ mềm lừ đi, rồi có khi bạn còn thấy cả cái hương vị thơm hăng của tre nữa. Tuy vậy, miếng chả ở đây tẩm ướp không thực sự đặc sắc lắm, nước chấm lại hơi đậm, cũng là một điểm trừ cho quán nhưng nhờ món chả được nướng khéo, chúng mình nghĩ nó cũng đáng để bạn đến ăn thử một lần lắm đấy.

Giá một suất bún đầy đủ ở đây là 30k, cũng không quá đắt cho một hàng bún ở tận trên mạn phố cổ, các bạn nhỉ.

3. Bún chả Hàng Quạt

Bạn sẽ phải mò mẫm mất một lúc mới tìm thấy hàng bún chả này đấy, bởi nó chẳng có biển hiệu gì cả ngoài một địa chỉ: ngõ 74 Hàng Quạt. Cũng giống như hai hàng bún chúng tôi vừa giới thiệu ở trên, hàng bún chả này cũng nhỏ lắm, vài bộ bàn ghế bày dọc trong ngõ là đủ để các thực khách đến ngồi ăn mỗi buổi trưa rồi.

Bún chả ở đây, ngon chắc cũng bởi được nướng rất khéo, nhất là chả viên. Nhiều người không thích ăn chả viên nhưng đều phải công nhận, chả viên ở đây rất ngon. Miếng chả nhỏ xinh, nướng cháy xém bên ngoài nên ăn có mùi thơm nồng rất thích, bên trong thịt lại mềm, đượm hương gia vị tẩm ướp cẩn thận. Ưu điểm nữa ở đây là một tô bún chả được cho rất nhiều chả và thịt, đôi khi bạn ăn còn chẳng hết nữa đấy.

Một suất bún ở đây bạn ăn no có giá rơi vào khoảng 30-35k, một mức giá hoàn toàn chấp nhận được trong thời buổi cái gì cũng đắt đỏ như thế này.

Thứ Tư, 14 tháng 5, 2014

Lẩu thả món quà xứ biển Phan Thiết

Thành phố ven biển Phan Thiết được biết đến với những đồi cát vàng uốn lượn bên bờ biển trải dài xanh mát quanh năm. Không những thế Đặc sản Bình Thuận nơi đây cũng thể hiện sự bình dị gần gũi nhưng đậm đà khó phai của xứ biển, bạn chắc chắn không thể bỏ qua món “Lẩu thả”.

Lẩu thả Phan Thiết đặc sản của Bình THuận
Lẩu thả Phan thiết vốn là món ăn quen thuộc của người dân nơi đây, tuy đơn giản nhưng đòi hỏi sự tinh tế và tâm huyết từ khâu chế biến đến cách trình bày. Món ăn là sự hòa quyện của thịt heo luộc, trứng chiên cắt sợi, các loại rau quả và đặc biệt là cá tươi từ vùng biển nơi đây. Cá sử dụng cho món lẩu này thường là cá mai có thân trong suốt được đánh bắt từ sáng sớm khi ghe tàu vừa cập cảng, đảm bảo thịt cá luôn săn chắc không có mùi tanh và cho vị ngọt đặc trưng. Cá được lóc xương thành phi lê rồi chần qua nước cốt chanh cho vừa chín tái và thấm ướp với tỏi ớt, gia vị.
Lẩu thả Phan Thiết – món quà xứ biển - 2


Nước lẩu thả còn được nấu công phu hơn với thành phần chính là nước hầm xương, tôm nõn xay nhuyễn, cà chua chín đỏ để tạo vị ngọt thanh và màu đỏ tự nhiên.

Ngoài ra, món ăn này không thể thiếu nước chấm đặc biệt của người dân nơi đây khi phối hợp khéo léo nước me chua, đậu phộng rang, ớt chín, chuối sứ và nước mắm thơm nồng được xay nhuyễn tạo nên một hỗn hợp sánh mịn, thơm béo mà đậm đà.

Sự tinh tế của món ăn còn thể hiện qua cách trình bày khi tất cả các nguyên liệu được sắp xếp trên những bẹ bắp chuối quay tròn quanh dĩa cá mai tươi và nồi lẩu nghi ngút khói, rực rỡ như 1 bông hoa trên bàn ăn.

Không giống những món lẩu khác, người dân nơi đây cho bún, các nguyên liệu kèm theo như thịt, trứng, rau rồi chan nước sốt vào để thưởng thức trọn vẹn vị tươi ngọt của các loại cá xứ biển và câu chuyện vui cùng bạn bè bên nồi lẩu nóng sôi. Món ăn này thường được gia chủ mời khách quý và không dễ tìm thấy kể cả trong rất nhiều những hàng quán tại Phan Thiết.

Nhiều món gỏi cá, gỏi ốc giác sành điệu ở Phan Thiết

Các quán ở khu vực này thường bán nhiều loại thức ăn chế biến từ hải sản như: tôm, cua, ghẹ, cá... với giá hợp lý và bạn có thể yên tâm về chất lượng của nó vì không ít người “sành điệu” cho rằng chất lượng món ăn hải sản ở các nhà hàng sang trọng chưa chắc bằng ở đây.


Dùng chung với bánh tráng nướng Chợ Lầu.

Đặc biệt, đến những quán này bạn đừng quên thưởng thức món gỏi cá, đây là món “cá sống” được làm từ cá suốt, cá đục hoặc cá mai còn tươi trộn với một hỗn hợp gia vị cay xè dùng chung với bánh tráng nướng Chợ Lầu khá nổi tiếng tạo nên một món ăn đặc trưng của phố biển.



Gỏi cá sống Phan Thiết .

Chỉ với ít tiền trong túi là bạn có thể lựa chọn để thưởng thức những món ăn đặc sản mà không phải nơi nào cũng có như: gỏi ốc, cá lồi xối mỡ, bánh canh chả cá...


Cá lồi xối mỡ.

Gỏi ốc giác.
Du lịch tại đây, bạn chẳng lo bị đói và cũng không sợ tốn quá nhiều tiền cho những đồ ăn vô cùng phong phú tươi ngon. Hơn thế, bạn sẽ khám phá sự kỳ diệu trong cách ẩm thực của người dân bản xứ, và chắc chắn rằng những món ăn mộc mạc quen thuộc với người dân nơi đây sẽ làm bạn yêu thích, nhớ mãi...

Bánh xèo Tuyên Quang nổi tiếng ở Phan Thiết

Dạo một vòng Phan Thiết vào buổi tối, bạn khó có thể bỏ qua chút hương vị đậm đà của những món ăn miền biển được người dân bản xứ chế biến một cách tinh tế.
Đêm, khí hậu thành phố biển ở mảnh đất cực Nam Trung Bộ trong lành hơn với những làn gió biển mát rượi. Dạo một vòng Phan Thiết vào buổi tối, bạn khó có thể bỏ qua chút hương vị đậm đà của những món ăn miền biển được người dân bản xứ chế biến một cách tinh tế từ sản vật mà thiên nhiên đã ưu ái ban cho quê hương Bình Thuận.

Tuyên Quang - con đường mang tên một tỉnh kết nghĩa với Bình Thuận ngày nay đã trở nên sầm uất cả ngày lẫn đêm. Đây là nơi tập trung rất nhiều quán ăn bình dân và được nhiều người biết đến bởi món “bánh xèo Tuyên Quang”, nhưng kỳ thực đó lại là món ăn ngon được hình thành từ bao đời nay bởi bàn tay khéo léo của người phụ nữ Phan Thiết.


Bánh xèo Tuyên Quang nổi tiếng.

Buổi tối, con đường này tỏa đầy mùi vị thơm ngon tỏa ra từ những hàng bánh xèo ở hai bên đường, chiếc bánh xèo được đúc trong một loại khuôn đất do người Chăm ở Bình Thuận sản xuất có kiểu dáng rất đặc biệt, khác với các loại chảo làm bánh xèo ở các nơi.

Những quán bánh xèo làm bánh từ hỗn hợp bột gạo và ngũ cốc mà người khác rất khó biết được công thức pha chế bởi đó là... bí quyết nghề nghiệp riêng của họ, chỉ biết rằng chiếc bánh bao giờ cũng đảm bảo yêu cầu giòn, xốp và đặc biệt là rất thơm.

Riêng đối với các loại hải sản như tôm, mực dùng để làm bánh bao giờ cũng là loại hải sản tươi, bảo đảm khi ăn vào bạn sẽ cảm nhận được vị ngon ngọt của tôm, mực. Món này bạn sẽ ăn cùng một loại nước chấm có màu đỏ hồng nhưng không cay lắm tạo nên một cảm giác ngon khó tả.

Vì vậy mà hàng đêm, có không ít du khách trong và ngoài nước thả bộ trên đường Tuyên Quang để nhìn những người phụ nữ tháo vát bên lò bánh xèo nghi ngút khói và rồi thưởng thức hương vị thơm ngon của nó với bao niềm thích thú.


Bánh xèo với nước chấm đem lại một vị ngon khó tả.

Du khách khi đến với biển đều muốn được tận hưởng những sản vật tươi sống của biển. Nhưng ngày nay, các sản vật bao giờ cũng nằm ở những nhà hàng cao cấp với giá cả rất khó phù hợp với túi tiền của người dân bình thường. Song bạn đừng lo, tại Phan Thiết bạn rất dễ tìm thấy những quán ăn đặc sản biển bình dân nằm trên đường Võ Thị Sáu.

Các quán ở khu vực này thường bán nhiều loại thức ăn chế biến từ hải sản như: tôm, cua, ghẹ, cá... với giá hợp lý và bạn có thể yên tâm về chất lượng của nó vì không ít người “sành điệu” cho rằng chất lượng món ăn hải sản ở các nhà hàng sang trọng chưa chắc bằng ở đây.

Món Bánh quai vạc phan thiết

Món Bánh quai vạc phan thiết này đã có từ rất lâu , khách phương xa tới Phan Thiết thường tìm thưởng thức cho bằng được món bánh đặc sản phan thiết này bởi hương vị thơm nồng khó quên của nó.Bạn cũng có thể tự làm cho gia đình thưởng thức vào ngày cuối tuần. Đây một trong những món bình dân đơn giản , được bán rất nhiều nới tại Phan thiết . Bánh quai vạc đã có từ ngàn xưa. Tôi và bạn bè mình vẫn thường dẫn nhau đi ăn. Một món ăn bình dân mà người dân Phan Thiết dù ở nơi đâu cũng không quên được hương vị hấp dẫn của nó.  

Chất dai dai của bánh quai vạc - đã thành quen thuộc với bất cứ người nào một lần thưởng thức - phải được làm từ bột mì tinh (lọc). Trước tiên là chế nước sôi lấy trùng, sao cho bột vừa chín tới.


Nhồi bột đến khi mềm dẻo, cắt từng phân nhỏ cỡ viên bi. Dùng chai thuỷ tinh cán mỏng tạo nên miếng vỏ bột trong đều. Tôm biển tươi rói, rửa sạch cắt bỏ đầu. Loại lớn con, cắt làm ba, làm tư; còn tôm nhỏ thì để nguyên.


Thịt ba rọi cũng cắt bằng cỡ miếng tôm ấy. Tất cả trộn chung, cho ít nước mắm, muối tiêu, đường, đem xào chín, vị vừa miệng. Xong gắp nhân bỏ vào giữa miếng bột đã cán mỏng, xếp đôi lại từng chiếc bánh.


Cho vào nồi nước sôi đun sắn, khi thấy bột trong là bánh đã chín, vớt ra rổ để ráo nước. Láng qua một ít dầu ăn, bánh sẽ không bị dính vào nhau, rồi rải hành lá cắt nhỏ lên bánh, tăng thêm màu vị.


Pha nước chấm hơi đặc với nguyên liệu chủ yếu là nước mắm, đường cát, ớt xiêm cắt lát mỏng, nêm nếm cho hợp khẩu vị.


Gắp bánh bày lên đĩa, kèm vài lát chanh bên cạnh chén hành củ, tóp mỡ phi vàng. Khi ăn cho bánh vào chén, rắc hành phi mỡ với nước chấm, tí chanh và nâng chén. Nhai từ từ sẽ tận hưởng cái vị ngòn ngọt, dai dai, béo béo, cay cay, mà ngon đáo để.









Khi muốn mua về thì sẽ được gói 1 cái hộp như vậy !



Bánh được bảo quản mang đi trong vòng 24 tiếng là ok nhất !